Sáng nay (2/10), Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thảm họa Làng Nủ – Nguyên nhân và giải pháp phòng tránh”. Các nhà khoa học đã đưa ra nhận định ban đầu về nguyên nhân gây ra thảm họa Làng Nủ.
Theo đó, ngay sau khi trận thảm họa thiên tai xảy ra ở thôn Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai), Viện Ðịa chất đã cử đoàn các nhà khoa học đã đi thực địa, tiếp cận hiện trường để phục vụ nghiên cứu xác định loại hình thiên tai, cơ chế xảy ra, từ đó, đề xuất giải pháp ứng phó trong những năm tiếp theo.
Thông tin tại hội thảo nêu trên, PGS. TS Nguyễn Châu Lân, Phó trưởng Bộ môn địa kỹ thuật, Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải cho biết: “Bước đầu chúng tôi xác định nguyên nhân gây nên thảm họa Làng Nủ là lũ bùn đá. Theo đó có tới 1,6 triệu m³ bùn đất, đá và nước xuất phát từ đỉnh núi Con Voi cách Làng Nủ 3,6km đã dội xuống thôn”.
“Trong quá trình di chuyển khối đất đá đã bị tắc nghẽn tại một khu vực hẹp chỉ rộng khoảng 100m, cách điểm phát sinh sạt lở khoảng 2km. Vị trí này vô tình tạo thành một đập chắn tự nhiên, làm tăng nguy cơ vỡ lũ. Thời điểm xảy ra lũ, lượng mưa tại khu vực rất lớn, với tổng lượng mưa tích lũy lên tới 633mm, trong đó lượng mưa theo giờ đạt 57mm, khiến khối lũ bùn đá di chuyển cực kỳ nhanh”, ông Lân nói.
Các nhà khoa học sử dụng mô hình 3D kết hợp dữ liệu thực địa và ảnh vệ tinh để tính toán, đã xác định, dòng lũ chỉ mất khoảng 5 phút (300 giây) để từ đỉnh núi tràn xuống ngôi làng. Kết quả mô phỏng cho thấy chiều sâu tích tụ dòng bùn là 8 – 15m, nơi sâu nhất khoảng 18m, vận tốc dòng chảy rất lớn tới 20 m/giây. Do đó, thời gian chảy từ trên núi xuống (cho cả quãng đường 3,6 km) là khoảng 10 – 15 phút.
PGS. TS Nguyễn Châu Lân cho biết thêm, tại khu vực xã Bảo Khánh, lượng mưa tích lũy ngày 9/9 là 500 mm. Như vậy, nhiều khả năng ở khu vực đỉnh núi Con Voi đã phát sinh trượt lở ban đầu từ ngày 9/9 nhưng người dân ở thôn Làng Nủ chưa ai cảm nhận được sẽ có lũ bùn đá.
Đáng lưu ý, ông Lân cho rằng trận lũ ống này không chỉ là hiện tượng đơn lẻ, mà đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Trong đó có thảm họa xảy ra tại TP Seoul, Hàn Quốc vào năm 2011.
“Hiện tại, các tỉnh miền núi như Hà Giang, Lào Cai… đã xuất hiện nhiều vết nứt địa chất, đủ để các cơ quan chức năng có thời gian ứng phó. Một trong những giải pháp trước mắt là che phủ các vết nứt bằng vải bạt, kết hợp với hệ thống dẫn và thoát nước ngang, nhằm ngăn nước thấm sâu vào lòng đất, hạn chế nguy cơ sạt lở. Đây là biện pháp đơn giản mà các địa phương có thể nhanh chóng triển khai, sau đó sử dụng các phương án kỹ thuật khác để xử lý vết nứt”, PGS-TS Nguyễn Châu Lân cho hay.
Nhận định ban đầu về nguyên nhân thảm họa, PGS-TS Nguyễn Châu Lân kết luận: Do lượng mưa giờ và lượng mưa tích lũy trong 3 ngày bão Yagi quá lớn gây trượt lở khối lớn, tích tụ vật liệu vào đoạn co hẹp tạo đập tạm thời và vỡ, thời điểm khoảng 6h sáng 10/9. Đá phiến phong hóa mạnh, cường độ không cao và tầng phong hóa dày gây trượt lở khối lớn. Thời gian dòng lũ bùn đá tràn và mở rộng xuống vùng quạt bên dưới (phạm vi ảnh hưởng lớn nhất) nhanh. Vận tốc dòng chảy quá lớn, kèm bùn đá, đất gây phá hủy nhà cửa.
GS. TS Đỗ Minh Đức cũng kiến nghị cần xây dựng bộ cơ sở dữ liệu, thành lập hệ thống bản đồ từ đó khoanh vùng được các khu vực có rủi ro cao. Trong đó có những lưu ý các loại hình trượt lở, lũ quét khác nhau.
Ngoài ra, mưa là yếu tố chủ yếu kích hoạt trượt lở. Các hệ thống quan trắc mưa hiện tại cần có mật độ cao hơn; phát hiện sớm mưa lớn cực đoan; Các hệ thống quan trắc chuyên sâu về ổn định mái dốc; nâng cao độ chính xác công tác dự báo qua ứng dụng phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo;
Tăng cường truyền thông thông tin cảnh báo sớm, đảm bảo chính quyền các cấp, đặc biệt là người dân trong vùng bị tác động của trượt lở nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác và hiểu rõ các hành động cần triển khai khi có yêu cầu.
Khi rủi ro trượt lở đạt đến mức rủi ro cấp 1 theo nghị định của Chính phủ, chính quyền địa phương cần hạn chế người và phương tiện lưu thông lân cận các khu vực nguy cơ cao, tới rủi ro cấp 2 và cao hơn, cần cấm các phương tiện lưu thông qua các khu vực nguy cơ cao; di chuyển dân trong khu vực nguy cơ cao đến nơi an toàn và chỉ quay lại khi không còn cảnh báo nguy cơ trượt lở.
Phát huy hiệu quả vai trò của các cán bộ cơ sở xã, thôn, các tổ đội xung kích phòng tránh thiên tai, như phát hiện sớm các dấu hiệu trượt lở, lũ quét. Chính quyền và người dân cần chú ý đến tính bất thường và cực đoan của thời tiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuẩn bị kịch bản ứng phó với những tình huống khó khăn nhất.
Được biết, làng Nủ nằm gần chân núi Voi, nơi 167 hộ với 760 đồng bào người Tày sinh sống nhiều đời. Cư dân chủ yếu làm nông, một năm hai vụ lúa, ngô, sắn. Trận lũ quét rạng sáng 10/9 khiến 33 hộ dân bị vùi lấp, 40 gia đình bị ảnh hưởng, 58 người chết, 9 người hiện vẫn mất tích.