Bảo tồn và phát triển hai loài lan nguy cấp, quý hiếm ở Việt Nam

Các nhà khoa học tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật đã xây dựng thành công đề tài về mô hình bảo tồn, phát triển hai loài lan quý hiếm ở Việt Nam là Lan hài chai và Lan hài đài cuốn.

Lan hài đài cuốn đã nở hoa, trong mô hình bảo tồn. (Nguồn: Báo Giáo dục và Thời đại Online)

Nhằm góp phần bảo tồn, phát triển các loài nguy cấp, quý hiếm nói riêng và công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung, mới đây, các nhà khoa học tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã nghiên cứu, xây dựng thành công đề tài: “Điều tra, đánh giá, đề xuất quy định, quy trình kỹ thuật bảo tồn và xây dựng mô hình bảo tồn, phát triển hai loài lan nguy cấp, quý, hiếm, có giá trị cao, được ưu tiên bảo vệ: Lan hài chai và Lan hài đài cuốn ở Việt Nam.”

Chủ nhiệm đề tài, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Văn Sinh, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật cho biết ở Việt Nam, hai loài lan trên xuất hiện tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và ở Tây Nguyên.

Tuy nhiên, các quần thể này ở Thừa Thiên-Huế đã tuyệt chủng. Lan hài là một trong những loại lan đặc hữu và sống ở những vùng rừng sâu, núi cao của Việt Nam, nơi mà thảm thực vật hầu như còn nguyên vẹn chưa bị ảnh hưởng nhiều từ con người. Do đó, việc điều tra, nghiên cứu hai loài lan này là cần thiết, có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn cao nhằm cung cấp các biện pháp hiệu quả hỗ trợ, bảo tồn những loài nguy cấp, quý, hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng.

Qua quá trình điều tra, các nhà khoa học đã bổ sung thông tin quan trọng về khu vực phân bố, nhu cầu ánh sáng, đặc điểm thổ nhưỡng, thành phần vi sinh vật trong đất nơi hai loài lan phát triển và các loài tuyến trùng ký sinh để phục vụ phòng, chống bệnh hại thực vật trong công tác bảo tồn.

Theo Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Văn Sinh, ngoài mô hình bảo tồn hai loài lan, các nhà khoa học đã xây dựng bộ dữ liệu về sinh học, sinh thái, hiện trạng của hai loài và đề xuất quy định, quy trình kỹ thuật bảo tồn và phát triển hai loài lan. Trong đó, sổ tay hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc, mô hình bảo tồn là bộ sản phẩm tổng hợp đầy đủ đầu tiên về các phương diện bảo tồn loài Lan hài chai và Lan hài đài cuốn ở Việt Nam.

Lần đầu tiên, hai loài lan hài được nhân giống bảo tồn từ hạt và đây cũng là lần đầu thành phần các nhóm nấm mốc, vi khuẩn, xạ khuẩn và các loài tuyến trùng chính ký sinh trên Lan hài đài cuốn được xác định.

Kết quả nghiên cứu đề tài có giá trị thiết thực góp phần vào bảo tồn, phát triển hai loài lan nguy cấp, quý, hiếm.

“Với những thành công bước đầu, các nhà khoa học mong muốn được tiếp tục giám sát, phát triển mô hình bảo tồn hai loài lan. Theo đó, các quy định bảo tồn và phát triển hai loài lan có thể áp dụng tại Cục Bảo tồn và Đa dạng sinh học, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Các sản phẩm khác được ứng dụng cho các cơ sở khi đăng ký nhân giống và trồng hai loài lan,” Phó Giáo sư-Tiến sỹ Nguyễn Văn Sinh chia sẻ.

Trong danh lục Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), năm 2020, có tới 1.641 loài thuộc họ lan, trong đó loài Lan hài chai và Lan hài đài cuốn đều thuộc cấp độ nguy cấp.

Ở nước ta, Nhóm I Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (kèm theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/1/2019) bao gồm 22 loài lan, trong đó có cả Lan hài chai và Lan hài đài cuốn.

Hai loài này còn nằm trong Danh mục các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (kèm theo Nghị định 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019).

Lan hài chai (Paphiopedilum callosum [Rchb.f.] Stein), còn gọi là Lan vân hài, là loài thân thảo đa niên, mọc dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá rộng ở sườn núi hay ven suối, ở độ cao 300-1.300m, rải rác trên đất có nhiều mùn. Cây nở hoa từ tháng Tư đến tháng Sáu, tái sinh trong tự nhiên bằng hạt.

Lan hài đài cuốn (Paphiopedilum appletonianum [Gower] Rolfe) là loài thân thảo đa niên, mọc dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa hỗn giao cây lá rộng – cây lá kim trên núi đá granit, ở độ cao 900-1.900m, thành nhóm nhỏ trên đất giàu mùn ở sườn gần đỉnh núi. Cây nở hoa từ tháng Ba đến tháng Năm, chủ yếu tái sinh tự nhiên từ hạt.