Ngày 15.12, tại Hà Nội, gần 100 chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học đã họp bàn về tiềm năng và phương hướng cho công tác bảo tồn – các khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác ngoài khu bảo tồn thiên nhiên (OECMs) tại Việt Nam.
Việt Nam là một trong 168 bên tham gia Công ước Đa dạng Sinh học (CBD). Tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia CBD đã thông qua khung đa dạng sinh học toàn cầu Kunming – Montreal nhằm định hướng công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trên toàn cầu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Đồng thời, một trong những mục tiêu chính của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu là kêu gọi thế giới bảo tồn 30% diện tích đất liền và biển của trái đất thông qua việc thành lập các khu bảo tồn và các OECMs (mục tiêu 30×30). OECMs đã và đang từng bước được mở rộng và phát triển trên toàn thế giới.
OECM là một khu vực được xác định về mặt địa lý, không phải là khu bảo tồn, được quản trị và quản lý theo những phương thức nhằm đạt được kết quả tích cực và bền vững lâu dài về bảo tồn đa dạng sinh học tại chỗ với các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái liên quan và đôi khi bảo tồn cả các giá trị văn hóa, tinh thần, kinh tế xã hội và các giá trị có liên quan khác tại địa phương.
Tại Việt Nam khung pháp luật quy định việc thành lập và quản lý OECMs như một cách tiếp cận bảo tồn mang tính sáng tạo đang được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng.
“Trong khi các khu bảo tồn phải có mục tiêu chính là bảo tồn thì các OECM có thể được quản lý với nhiều mục đích khác nhau nhưng phải đạt được mục tiêu bảo tồn hiệu quả và dài hạn. Việc thành lập các OECM phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, góp phần thúc đẩy bảo tồn nguyên vị đa dạng sinh học.
Thể chế hóa các OECM sẽ không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết quốc tế mà còn bảo vệ đa dạng sinh học của các sinh cảnh bị đe dọa như những vùng núi đá vôi độc lập, các vùng đồng cỏ ngập lũ theo mùa, các vùng bãi triều ven biển mà hiện nay còn chưa xuất hiện nhiều trong hệ thống các khu bảo tồn”- ông Jake Brunner, Giám đốc IUCN khu vực hạ lưu Mê Kông chia sẻ.
Bà Anja Barth, Cố vấn trưởng Dự án, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) Việt Nam cho rằng: “Dựa trên kết quả của một nghiên cứu mà GIZ Việt Nam đã phối hợp tiến hành cùng với Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Vụ Quản lý Rừng đặc dụng, phòng hộ thuộc Bộ NNPTNT đã xác định được 9 hạng mục các khu vực là OECM tiềm năng.
Trong giai đoạn tới, Việt Nam cần xây dựng bản đồ của những khu vực này và đề xuất các cơ chế quản lý và quản trị tổng thể. Với việc công nhận các OECMs, Việt Nam sẽ đạt được bước tiến đáng kể đối với hệ thống các khu bảo tồn và bảo vệ. Đây chính là nền tảng để thực hiện các cam kết đầy tham vọng của Việt Nam trong Công ước Đa dạng sinh học của LHQ và thực hiện Mục tiêu 30×30 tại Việt Nam”.
Ông Nguyễn Văn Trí Tín, Giám đốc Chương trình Bảo tồn các loài hoang dã, WWF-Việt Nam – cho rằng: “Việc thực hiện OECM tại Việt Nam cần được tiếp cận một cách toàn diện, đảm bảo sự tham gia chủ động của cấp cơ sở và cộng đồng địa phương. WWF mong muốn phối hợp với các bên liên quan trong việc lựa chọn, thí điểm một vài mô hình OECM ở khu vực Trung Trường Sơn, đóng góp cho việc hoàn thiện khung pháp lý và các chính sách cho các OECMs của Việt Nam trong những năm tới”.