Trong tổng số gần 15 triệu ha rừng hiện có, tính đến tháng 9/2023 cả nước mới có gần 500 nghìn ha được cấp 2 loại chứng nhận FSC (Chứng chỉ rừng bền vững quốc tế) và VFCS (Chứng chỉ rừng bền vững của Việt Nam). Việc cấp chứng chỉ rừng còn gặp một số khó khăn do rừng trồng chủ yếu do hộ thực hiện quy mô nhỏ, trình độ có hạn…
Ngày 7/11/2023, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp với Báo Nông thôn ngày nay tổ chức buổi Toạ đàm trực tuyến chủ đề “Nâng cao chuỗi giá trị rừng nguyên liệu”, nhằm tạo diễn đàn tháo gỡ các vướng mắc, tạo thuận lợi hơn cho phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng theo hướng đa giá trị, thúc đẩy xuất khẩu gỗ bền vững.
Chứng chỉ rừng bền vững đem về nhiều lợi ích
Ông Nguyễn Văn Diện, Trưởng phòng Thông tin và Chuyển đổi số, Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết diện tích rừng của chúng ta tăng lên rất nhanh. Thống kê cập nhật số liệu mới nhất của Cục Lâm nghiệp cho thấy diện tích rừng của Việt Nam hiện khoảng 14,74 triệu ha, trong đó rừng trồng chiếm 4,57 triệu ha (31%), rừng tự nhiên chiếm 10,17 triệu ha (69%).
Cùng với tạo công ăn việc làm cho hơn 2 triệu nông dân, rừng trồng chính là nguồn cung cấp chính cho công nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu. Hiện nay, cả nước có hơn 6.000 doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản, các doanh nghiệp lớn chủ yếu tập trung tại Đông Nam Bộ tại TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương.
“Trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2021-2030, tỷ lệ che phủ rừng sẽ từ 42-43%, giá trị sản xuất tăng từ 5 – 5,5%, mục tiêu đến năm 2025 giá trị xuất khẩu đạt 18-20 tỷ USD, năm 2030 đạt 23-25 tỷ USD”.
Ông Nguyễn Văn Diện, Trưởng phòng Thông tin và Chuyển đổi số, Cục Kiểm lâm. |
Ông Trần Lâm Đồng, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, cho biết Việt Nam là quốc gia tiếp cận chứng chỉ rừng từ sớm, từ năm 2006 đã có những khu rừng đầu tiên được cấp Chứng chỉ Rừng bền vững quốc tế FSC. Năm 2018, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng, trong đó giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia của Việt Nam (VFCS).
Hệ thống VFCS được xây dựng theo các tiêu chuẩn và yêu cầu của Hệ thống chứng chỉ rừng quốc tế PEFC, được PEFC công nhận, cho phép sử dụng nhãn mác và vận hành từ 2019. Tính đến tháng 9/2023 tổng diện tích rừng của Việt Nam cả 2 loại chứng chỉ VFCS/PEFC và FSC gần 500.000ha. Trong đó có 152.000 ha chứng chỉ rừng VFCS/PEFC.
“Là nước đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu lâm sản, đồ gỗ, vai trò của chứng chỉ rừng bền vững rất quan trọng. Để đưa nhiều sản phẩm vào các nước Mỹ, quốc gia nhập khẩu, thị trường khó tính đều đòi hỏi cần các chứng chỉ rừng bền vững. Qua đó giúp gia tăng giá trị sản phẩm lâm sản, tăng thu nhập cho người trồng rừng”, ông Đồng khẳng định.
Quảng Trị là tỉnh đầu tiên ở Việt Nam được cấp chứng nhận quốc tế FSC đối với rừng tự nhiên. Chia sẻ tại tọa đàm, ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Quảng Trị cho biết 2.145 ha rừng tự nhiên của 5 thôn tại các xã: Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Việt, Hướng Linh của huyện Hướng Hóa được cấp chứng nhận quốc tế FSC dịch vụ hệ sinh thái về lưu trữ và hấp thụ carbon vào tháng 10/2022. Theo tính toán, trữ lượng lưu trữ carbon tại các diện tích rừng này khoảng 350.000 tấn CO2 và lượng hấp thụ hàng năm khoảng 7.000 tấn CO2.
“Kết quả này mang đến cơ hội cho các chủ rừng cộng đồng trong việc tiếp cận các nguồn tài trợ và chi trả tự nguyện cho dịch vụ hệ sinh thái do Hội đồng Quản trị rừng Quốc tế FSC khởi xướng trên toàn cầu”, ông Đồng chia sẻ.
Thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn gắn với lâm sản ngoài gỗ
Trong khi rừng trồng tại Việt Nam phần lớn vẫn là trồng các loài cây gỗ nhỏ cho giá trị thấp, thì việc trồng rừng gỗ hứa hẹn cho giá trị cao gấp nhiều lần. Theo ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Quảng Trị, đến thời điểm này toàn tỉnh Quảng Trị đã có 23.400 ha rừng trồng gỗ lớn FSC, tập trung chủ yếu ở các công ty lâm nghiệp gồm: Bến Hải, Triệu Hải và Đường 9 với khoảng trên 17.000 ha, diện tích còn lại ở các hộ dân và hợp tác xã.
Giai đoạn 2022 -2025 tỉnh Quảng Trị xây dựng vùng nguyên liệu rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ FSC trên địa bàn 5 huyện gồm: Hải Lăng, Cam Lộ, Triệu Phong, Gio Linh và Vĩnh Linh với khoảng 5.000 ha. Qua đó nâng diện tích rừng loại này lên khoảng 28.000 ha, đến năm 2030 phấn đấu đạt 30.000 ha.
“Tại tỉnh Quảng Trị, song song với việc phát triển trồng rừng gỗ lớn, tỉnh cũng đặt ra mục tiêu thu hoạch lâm sản ngoài gỗ dưới các cánh rừng gỗ lớn: đến năm 2030 sản xuất khoảng 4.000 tấn hạt trẩu (tương đương trị giá thương mại khoảng 50 tỷ đồng/năm); 10.000 tấn than tre sinh học/năm, ngoài ra còn thu hoạch bồ kết, măng khô…”.
Ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Quảng Trị. |
Ông Vũ Thanh Nam, Trưởng phòng Sử dụng rừng, Cục Lâm nghiệp khẳng định: “Trồng rừng gỗ lớn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn cho các hộ gia đình, mà còn giúp giảm xói mòn góp phần bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu”.
Tuy hiệu quả của rừng gỗ lớn so với rừng gỗ nhỏ đã được khẳng định, song ông Nam cho hay loại rừng này vẫn chưa phát triển tương xứng. Đặc điểm nữa là rừng trồng của chúng ta chủ yếu là các loài cây mọc nhanh, cây trồng rừng tầm 5-6 tuổi là chúng ta đã khai thác rồi. Diện tích rừng trồng gỗ lớn hiện nay đang được chuyển hóa khá khiêm tốn, có 440.000 ha, chiếm hơn 10% tổng rừng trồng sản xuất (với cây trồng rừng trên 10 tuổi).
Ông Nam chỉ ra những khó khăn và vướng mắc trong trồng rừng gỗ lớn.
Thứ nhất: Quỹ đất quy hoạch trồng rừng gỗ lớn quy mổ nhỏ, nhiều chỗ dưới 1ha manh mún, phân tản, không liền vùng.
Thứ hai: Trồng rừng gỗ lớn cần thời gian dài, người dân cần tiền phát triển kinh tế mà thời gian thì mất nhiều nên đây cũng là một trong những rào cản lớn.
Thứ ba: Do chu kỳ dài nên câu chuyện vay vốn, tiếp cận vốn vay khó, tuy chính sách nhà nước cũng đã có những hỗ trợ nhất định nhưng cũng không thể đáp ứng được hết nhu cầu.
Thứ tư: Trồng rừng gỗ lớn có nhiều rủi ro như gió bão, thiên tai, gây thiệt tại cho bà con. Ví dụ như trồng rừng gỗ lớn dọc biển miền Trung chẳng hạn, trong suốt 10 năm thì cũng sẽ có những trận bão, lũ gây thiệt hại không nhỏ cho bà con nông dân.
Thứ năm: Khó khăn về giống và biện pháp canh tác, trồng rừng gỗ lớn đòi hỏi giống khác, biện pháp kỹ thuật lâm canh có những hạn chế khi áp dụng quy mô hộ gia đình.
Thứ sáu: Liên kết giữa các doanh nghiệp, mặc dù đã phát triển trong thời gian vừa qua nhưng cũng còn hạn chế và chưa phổ biến.
Hiện Bộ xây dựng và đang ban hành đề án riêng về trồng rừng gỗ lớn giai đoạn 2023 đến 2030, dự kiến Bộ sẽ phê duyệt đề án này vào năm nay trong đó có các cơ chế, chính sách về hợp tác, liên kết phấn đầu cuối năm 2030 chúng ta có 1 triệu ha rừng gỗ lớn. Trên cơ sở khoảng trên 440.000ha và chúng ta cần phát triển thêm trên 500.000ha rừng nữa là đạt kết quả này.
Theo các chuyên gia, để phát triển rừng trồng nguyên liệu gỗ lớn cần có thêm chính sách, hoạt động hỗ trợ, tạo động lực để nhiều hộ dân tham gia. Ông Vũ Thành Nam kiến nghị, cần phải đầu tư nghiên cứu cho ra các giống cây rừng gỗ lớn phù hợp với điều kiện từng vùng, chuyển giao nhiều giống mới cho bà con.
“Do trồng rừng gỗ lớn đòi hỏi phải chờ đợi vài chục năm mới thu hoạch, trong khi bà con nông dân còn nghèo, không có sinh kế để chờ rừng quá lâu, nên giải pháp của chúng ta đưa ra hiện nay là trồng rừng kết hợp phát triển lâm sản ngoài gỗ, thay vì độc canh vài loại cây rừng”, ông Nam nêu thực tế, đồng thời cho rằng cần nghiên cứu thêm các loại phân bón, chế phẩm sinh học để bón cho cây để cải tạo được năng suất rừng.