Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, các ý kiến đều đồng tình cho rằng cần thiết xây dựng nghị quyết mới của Bộ Chính trị về công tác này…
Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ bao gồm 14 tỉnh, với tổng diện tích trên 95,0 ngàn km2 (chiếm 28,75% của cả nước), dân số gần 12 triệu người (chiếm 12,93% dân số cả nước), diện tích đất có rừng gần 5,4 triệu ha, chiếm khoảng 37% diện tích đất có rừng cả nước; tỷ lệ che phủ là 54,02%, cao hơn nhiều mức bình quân chung toàn quốc (42%), 7/14 địa phương có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc.
Vùng có nhiều địa phương thuộc diện khó khăn, chỉ 1/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người năm 2022 trên bình quân cả nước (GRDP tỉnh Thái nguyên: 4.831USD/người/năm); 7/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người nằm trong nhóm 10 tỉnh thấp nhất cả nước; là vùng tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với trên 30 dân tộc cùng sinh sống; hạ tầng phát triển còn chậm… |
Ngày 09/5/2023 tại Lào Cai, Ban Kinh tế TW phối hợp với Bộ NN&PTNT và Tỉnh ủy Lào Cai tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Phát biểu tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế TW, Trưởng Ban Chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 13-CT/TW Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, trong 5 năm qua, các địa phương trong Vùng đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là Chỉ thị số 13-CT/TW đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Ngành lâm nghiệp đã có bước phát triển khá, từng bước khẳng định được vị thế, vai trò trong phát triển kinh tế – xã hội của vùng, góp phần nâng cao đời sống người dân. Diện tích rừng trồng tăng lên; diện tích rừng tự nhiên, hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học được bảo vệ khá tốt, độ che phủ rừng cao hơn trung bình cả nước trên 12% (đạt 54,2%), tăng 0,6% so với trước khi có Chỉ thị 13. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ phát triển khá. Các cơ chế, chính sách về phát triển lâm nghiệp từng bước được hoàn thiện.
Đặc biệt, các địa phương trong khu vực đã nỗ lực khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu trong Chỉ thị số 13-CT/TW như: Thực hiện nghiêm túc chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên; công tác quy hoạch, bảo vệ, phát triển rừng được thực hiện đồng bộ với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội; các dự án thủy điện, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch… trên địa bàn được thực hiện đúng quy định của pháp luật;
Việc chuyển đổi rừng tự nhiên, rừng nghèo kiệt sang trồng rừng, sản xuất nông nghiệp được kiểm soát chặt chẽ; các vụ việc chống người thi hành công vụ giảm mạnh nhờ sự vào cuộc quyết liệt của các lực lượng chức năng; tình trạng dân di cư tự do từng bước được kiểm soát; hoạt động phòng cháy, chữa cháy rừng được triển khai khá tốt, bám sát địa bàn, được phát hiện, xử lý kịp thời; việc phát triển rừng, trồng rừng thay thế và xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng có nhiều chuyển biến.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, Trưởng ban Kinh tế TW Trần Tuấn Anh cũng chỉ ra những hạn chế, vướng mắc cần tiếp tục khắc phục như: Vẫn còn để xảy ra các điểm nóng về phá rừng, khai thác lâm sản trái pháp luật, đặc biệt là phá rừng tự nhiên; Việc phân cấp quản lý rừng đặc dụng hiện nay vẫn còn bất cập; Kinh phí chi cho quản lý, bảo vệ và bảo tồn thiên nhiên hạn hẹp, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn ngân sách nhà nước, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích từ du lịch sinh thái, sử dụng môi trường rừng, phát triển kinh tế dưới tán rừng;
Ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào phát triển lâm nghiệp chưa thực sự được quan tâm đúng mức; Tiến độ sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động Công ty nông, lâm nghiệp còn chậm, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; Tỷ lệ che phủ rừng tăng, nhưng chất lượng rừng chưa cao kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng;
Xảy ra nhiều mâu thuẫn, tranh chấp đất đai giữa các Ban quản lý rừng, Công ty nông lâm nghiệp và người dân, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn về an ninh trật tự tại nhiều nơi; Thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật trong việc chuyển mục đích sử dụng đất rừng gây khó khăn cho nhiều địa phương; Tình trạng thiếu hụt nhân lực chuyên trách bảo vệ rừng khiến cho nhiệm vụ giữ rừng, bảo vệ rừng trở nên khó khăn.
Tại Hội nghị, các địa phương trong Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ cũng đã chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân đồng thời đề xuất quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Đặc biệt, hầu hết các ý kiến đề xuất cần có Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững. Nghị quyết này sẽ đưa ra các chủ trương, chính sách mới, bảo đảm cả 2 hướng chủ đạo: bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.
Trưởng ban Kinh tế TW Trần Tuấn Anh đã đề nghị Ban Tổ chức Hội nghị tổng hợp, chắt lọc, tiếp thu tối đa những nội dung được trình bày và ý kiến thảo luận phục vụ công tác sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW và tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, cơ chế, chính sách có hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trong bối cảnh mới.
7 nội dung lưu ý về công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết dứt điểm các tồn đọng, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp có nguồn gốc từ nông lâm trường quốc doanh; tình trạng di dân tự do. Thứ hai, Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để phát triển kinh tế rừng: đổi mới chính sách đầu tư, hỗ trợ và ưu đãi đầu tư cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; phát triển kết cấu hạ tầng lâm nghiệp, phát triển công nghiệp sản xuất, chế biến gỗ và sản phẩm gỗ; phát triển du lịch sinh thái gắn với bảo vệ và phát triển rừng. Thứ ba, các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, phát triển bền vững dịch vụ môi trường rừng; khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách cho thị trường tín chỉ cac-bon ở Việt Nam. Thứ tư, bảo vệ toàn bộ diện tích rừng hiện có, đặc biệt là các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng tự nhiên, bảo đảm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết quốc tế tại COP26 về biến đổi khí hậu. Thứ năm, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ mới trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cần có chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển giống, trồng rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cơ giới hóa trong lâm nghiệp, chế biến gỗ và lâm sản. Thứ sáu, về an sinh, tạo việc làm bền vững cho người dân khu vực có rừng. Thứ bảy, hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. |