Có lần, người bạn phương xa khi tham quan vườn chim ở Khu Tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Phường 1, TP Cà Mau), sau phút ngạc nhiên đã tò mò hỏi tôi: Ai là người nghĩ ra chuyện lập vườn chim này và việc dẫn dụ chúng chắc không hề đơn giản? Tôi ậm ờ, nợ bạn một lời giải đáp. Mãi tới gần đây, sau bao bận lần dò tìm hiểu, mọi việc mới được tận tường.
Năm 1989, khi khu dược liệu của Xí nghiệp Dược Minh Hải giải tán, Ðảng uỷ, Ban Giám đốc Sở Lâm nghiệp tỉnh Minh Hải (Cà Mau – Bạc Liêu ngày nay) quyết định mua lại khu đất trên để xây dựng công trình kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Bác, lấy tên là Lâm viên 19/5. Lâm viên được xây dựng theo mô hình tỉnh Minh Hải thu nhỏ, trong đó có khu rừng tràm U Minh, rừng đước Năm Căn, dừa Phú Tân, nhãn Bạc Liêu, dâu Cái Tàu, khu vui chơi giải trí và khu sưu tập động thực vật. Buổi đầu nhận nhiệm vụ, cả thảy chỉ có 8 người, Kỹ sư Lê Thị Liễu được phân công làm Phó ban Quản lý lâm viên.
Những ngày dồn sức cho công việc, bà Liễu thấy có khá nhiều chim bay qua bay lại, trong đầu chợt nảy sinh ý nghĩ: “Hay mình xây dựng nơi đây một vườn chim để tập hợp chúng về, cũng để làm phong phú thêm khu sưu tập động thực vật? Chứ để chúng sống rải rác, người ta cũng săn bắt hết. Tỉnh Minh Hải có 9 vườn chim, nhưng hầu hết ở các huyện, thị xã Cà Mau không có vườn chim nào”.
Ðem ý tưởng bàn với anh chị em trong tổ động vật, mọi người tỏ ra ái ngại: “Chim trời, sao giữ được cô ơi?!”. Trao đổi với bạn bè, họ cho rằng khó thực hiện, là chuyện viển vông “ăn cơm dưới đất nói chuyện… trên trời”; bởi giữa phố thị ồn ào thì chim nào ở được. “Lúc đó cũng có hơi nhụt chí, nhưng mình nghĩ cứ làm thử mới biết, thành công thì tốt, không thì cũng rút ra nhiều kinh nghiệm, nghiên cứu mà!”, bà bộc bạch.
Ðược học hành ngoài miền Bắc trong những năm đi tập kết, là kỹ sư chăn nuôi, nhưng bà không được trang bị kiến thức về động vật hoang dã; khi đó cũng chẳng tìm thấy tài liệu nào dạy chuyện dụ chim. “Nhưng mình vẫn có niềm tin sẽ làm được. Tôi động viên anh chị em, và họ thuận tình”, ánh mắt kiên nghị, đầy tự tin, bà như sống lại thời khắc với những quyết định đầy tính táo bạo này.
Bước đầu, bà xin xây dựng sân chim mini gần 1 công đất, xung quanh rào lưới, bên trong đào mương thả cá, trồng trúc, trồng cây bụi cho chim ở và làm bãi để chúng ăn. Phải tạo môi trường gần giống nơi chim sinh sống; cung cấp đủ thức ăn; tập cho chúng phản xạ có điều kiện như ăn đúng giờ, khẩu phần ăn không thay đổi; đặc biệt, người chăm sóc phải gắn bó và có tình thương với chúng…, đó là các yêu cầu đặt ra khi bắt tay vào thực hiện dự án. “Xây nhà cho chim” xong, bà cùng các cộng sự đi xuống mấy vườn chim ở huyện mua chim về cắt cánh thả vào đó.
“Cắt cánh không bao lâu thì cánh lại mọc ra, chúng bay đi. Nhưng nhờ mình cho ăn theo giờ cố định nên thành thói quen, cứ chiều tới giờ là chúng bay về, còn kéo theo mấy con bên ngoài. Bắt đầu thấy mừng, nhưng cũng chưa hiệu quả, bởi ăn xong chúng lại bay đi…”, bà vẫn không quên những ngày đầu gầy dựng sân chim lắm nhiêu khê, đầy thử thách.
Vậy rồi suy nghĩ tới chuyện thử tháo khớp đầu cánh một số con để chúng không bay được. Cùng lúc này, bà lại nghĩ ra một sáng kiến là trộn bã cà phê vô thức ăn chim (chủ yếu là cá) để chúng ăn và nghiện, tới cữ sẽ quay về. Phương pháp này trở nên hết sức hiệu nghiệm. Những con tháo khớp thì luẩn quẩn trong sân làm chim mồi, những con cánh mọc dài thì chiều bay về và kéo thêm nhiều con khác. Rồi những con khác lại rủ thêm… Cứ thế chúng kéo về ngày một đông, khẩu phần thức ăn phải tăng thêm liên tục. Sau 1 năm, bắt đầu thấy chúng làm tổ, rồi đẻ và nở. Dần dần nhiều tổ hơn, đẻ và nở chật cứng sân.
“Cái cảm giác con chim đầu tiên nở mừng không sao kể xiết, cả tổ hào hứng chụp ảnh khoe với mọi người và phấn khởi báo cáo cấp trên”, trong giọng kể của người kỹ sư tuổi ngấp nghé bát tuần, niềm vui vẫn như còn nguyên vẹn.
Vậy là bà làm dự án xin chuyển qua vườn lớn, đó là khu rừng tràm. Cũng làm rào, xẻ mương thả cá, trồng thêm trúc, cây bụi; còn chở cả than bùn từ U Minh ra tạo vồ và trồng nhiều loài thực vật đặc trưng. Rồi bắt chim thả qua, cũng tháo khớp, cho ăn đúng giờ, trộn bã cà phê vào thức ăn… y như bên sân nhỏ. Dần dần chim kéo về ngày một nhiều và sinh sôi nảy nở. “Chim có tổ, người có tông”, khi có tổ, thì nơi đó thành “nguồn cội” chúng tự động quay về. Thế là vườn chim ngày càng đông đúc.
Ðó là vào những năm 1993, 1994, khi ấy tin tức về chuyện giữa thị xã Cà Mau tạo được một vườn chim lan rộng và nổi lên như một hiện tượng đặc biệt. Bấy giờ Lâm viên 19/5 đã mở cửa đón khách vào tham quan, vui chơi giải trí, lượng khách tới rất đông và vườn chim cũng góp phần tạo một điểm nhấn nơi này.
“Cũng phải mất gần 4 năm mới thành công được như vậy”, bà nhớ lại. Gần 4 năm, với biết bao tìm tòi, nghĩ suy, trăn trở, bao nhọc nhằn, gian nan, buồn vui, thách thức… Chưa kể còn bị áp lực từ cấp trên, phải báo cáo giải trình mỗi khi chim chết; còn bị phê bình, kiểm điểm… Dẫu vậy, bà và các cộng sự vẫn quyết tâm theo đuổi và tất cả đã được đền bù.
Những năm ấy, khi còn làm Bí thư thị xã Cà Mau, ông Phạm Thạnh Trị đã rất ủng hộ và tạo điều kiện cho bà thực hiện dự án. Sau này khi làm Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Minh Hải, rồi tỉnh Cà Mau, ông cũng hết sức quan tâm. Khi thấy trẻ con thả diều trong khu vực, ông lưu ý địa phương nhắc nhở. Ông cũng cấm tuyệt đối việc bắn pháo hoa trong khu vực gần vườn chim. Năm 2020, bấy giờ là Chủ tịch Hội Sinh vật cảnh tỉnh, chính ông ký quyết định tặng giấy khen cho bà Liễu vì đã có công trong việc dẫn dụ chim hoang dã lập nên vườn chim, tạo môi trường thiên nhiên giữa lòng thành phố.
Ông tâm đắc: “Nhờ chị Liễu, một người làm khoa học luôn chịu khó nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, bản lĩnh, quyết đoán mới có được vườn chim hết sức độc đáo như hiện giờ. Tôi đi mấy chục nước trên thế giới, không nơi nào có được vườn chim trong lòng đô thị như Cà Mau. Thái Lan, Singapore cũng có sân chim mini, nhưng họ phải bao lưới bên trên, giữ chim trong đó”.
Trong suốt câu chuyện, bà luôn bảo, công trình này do mình khởi xướng, nhưng đạt kết quả là nhờ công sức chung của nhiều người; nhất là bà Vũ Thị Thuý và ông Lê Danh Cương, là những người kề vai sát cánh. Ðặc biệt, từ những kiến thức, kinh nghiệm tích luỹ được khi làm việc nơi đây, sau này, ông Cương đã tạo lập thành công nhiều vườn chim cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Về hưu, hiện sống tại ấp Tắc Thủ, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, trong nhiều niềm vui tuổi xế chiều, bà vẫn thường hướng mắt dõi theo những cánh chim sáng sáng chiều chiều đi về chốn bình yên trong lòng thành phố. Bà tâm tình: “Làm được công trình này tôi vui lắm, vì thấy mình góp được một việc có ý nghĩa cho đời”.
Âm thầm làm việc, không muốn phô trương, nên dù có công tạo dựng một “kỳ tích” nhưng bà một mực từ chối không cho viết bài đăng báo, phải thuyết phục mãi bà mới miễn cưỡng xiêu lòng. Có lẽ cũng vì tính khiêm nhường mà ngoài những bạn bè, một số người cùng thời, tác giả công trình này không phải nhiều người biết đến. Còn thế hệ chúng tôi sau này thì càng ít ai biết được rằng: vườn chim giữa lòng TP Cà Mau được ra đời từ ý tưởng tuyệt vời cùng tâm sức, trí tuệ của một người phụ nữ – Kỹ sư Lê Thị Liễu.
Hiện vườn chim do Kỹ sư Lê Thị Liễu tạo dựng tại Khu Tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (Lâm viên 19/5 lúc ấy) đã mở rộng khoảng 3 ha, có 53 loài với hơn 10.000 cá thể; trong đó có một số loài quý như: điên điển, diệc xám… Mỗi năm ngoài hàng chục ngàn lượt khách tham quan, nơi này còn đón tiếp nhiều đoàn nghiên cứu trong nước và quốc tế. |