Nguồn cung nguyên liệu gỗ tự nhiên trong nước không còn do chính sách đóng cửa rừng tự nhiên nên lượng gỗ nhập khẩu từ châu Phi ngày càng được mở rộng. Tuy vậy, thông tin liên quan tới yêu cầu về tính hợp pháp tại các quốc gia khai thác gỗ ở châu Phi vẫn hạn chế.
Chiều 8/11, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam phố hợp với Tổ chức Forest Trends tổ chức hội thảo tìm hiểu về tính hợp pháp của gỗ châu Phi nhập khẩu tại Việt Nam nhằm nâng cao kiến thức về vấn đề này cho các nhà hoạch định chính sách và khu vực tư nhân ở Việt Nam và Cameroon.
Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi Luật Lâm nghiệp, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản (VPA FLEGT) với Liên minh châu Âu vào năm 2018. Trong Nghị định số 102/2020/ND-CP quy định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS) đã nêu rõ các yêu cầu được thống nhất trong Hiệp định VPA FLEGT nhằm đảm bảo tất cả các sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước đều hợp pháp.
Hiện tại, Việt Nam cấm khai thác rừng tự nhiên, vì vậy không có gỗ khai thác từ nguồn này. Nguồn cung gỗ rừng trồng trong nước (chủ yếu là gỗ keo) rất lớn và đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng, vượt 30 triệu m3/năm. Tuy nhiên, khoảng 80% gỗ rừng trồng có quy mô nhỏ, đang được sử dụng để sản xuất dăm gỗ và viên nén; 20% còn lại dùng để sản xuất đồ nội thất. Mặc dù sản lượng cây phân tán và cao su khai thác trong nước lớn, tương ứng khoảng 2-3 triệu m3 và 4 triệu m3 mỗi năm, nhưng nguồn cung gỗ trong nước trong bối cảnh cấm khai thác rừng tự nhiên không đủ cung cấp cho ngành đang mở rộng.
Tại hội thảo, ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia của Tổ chức Forest Trends cho biết gỗ nhập khẩu, nhất là gỗ tròn (HS 4403) và gỗ xẻ (HS 4407), đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của ngành.
Hằng năm, Việt Nam nhập khẩu khoảng 5-6 triệu m3 gỗ quy tròn (RWE) từ hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, châu Phi trở thành nguồn cung cấp gỗ nhiệt đới quan trọng nhất của Việt Nam, khoảng 1,3 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ, trị giá hơn 500 triệu USD/năm. Nhập khẩu gỗ của châu Phi vào Việt Nam ngày càng mở rộng.
Những mặt hàng nhập khẩu đến từ hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Cameroon, Gabon, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hoà Congo là những quốc gia có nguồn cung cấp chính. Số lượng các loại gỗ nhập khẩu từ châu Phi cũng rất lớn. Ví dụ, năm 2020, 122 loại gỗ được nhập khẩu vào Việt Nam từ châu Phi.
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết kiểm soát tính hợp pháp của gỗ nhập khẩu, bao gồm cả gỗ nhập khẩu từ châu Phi, là một yêu cầu tố trọng tâm của VNTLAS. Vì vậy, hiểu biết các yêu cầu về tính hợp pháp của gỗ nhập khẩu từ châu Phi là chìa khóa để thực thi VNTLAS.
Trên thực tế, gỗ nhập khẩu từ châu Phi ngày càng được nhân rộng, song tại Việt Nam, thông tin liên quan tới các yêu cầu về tính hợp pháp tại các quốc gia khai thác gỗ ở châu Phi còn khan hiếm. Thông tin ít ỏi có thể cản trở sự tuân thủ của người tham gia, từ đó có thể vướng những rủi ro về tính hợp pháp của các sản phẩm nhập khẩu.
Điều này cho thấy nhiều thách thức về triển khai VNTLAS tại Việt Nam trong tương lai do sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp gỗ Việt Nam đòi hỏi một khối lượng lớn và ngày càng tăng nguyên liệu gỗ đầu vào.
Ông Nguyễn Văn Tiến, Trưởng Phòng Điều tra, xử lý vi phạm về lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) thông tin thêm, để đảm bảo gỗ nhập khẩu vào Việt Nam là hợp pháp, Nghị định số 102/2020/NĐ-CP đã tăng thêm thủ tục hành chính và thời gian thông quan cho các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ. Doanh nghiệp phải thực hiện bản kê khai nguồn gốc gỗ nhập khẩu, nộp bổ sung tài liệu nếu gỗ nhập khẩu từ loài rủi ro hoặc từ vùng địa lý không tích cực, đồng thời, tăng trách nhiệm, công việc cho cán bộ hải quan cửa khẩu khi làm thủ tục thông quan.
Nhằm giảm bớt gánh nặng hành chính cho cơ cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư số 21/2021/TT-BNNPTNT quy định phân loại doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ. Thông tư nhằm đánh giá mức độ rủi ro của tất cả các tổ chức, doanh nghiệp trong việc tuân thủ các yêu cầu của Hệ thống VNTLAS để thực hiện các biện pháp xác minh phù hợp, hiệu quả và kịp thời; tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
Tuy nhiên, ông Tiến thừa nhận việc phân loại doanh nghiệp gặp khó khăn trong xác minh kết quả kê khai của doanh nghiệp vì thiếu cơ chế phối hợp giữa Chi cục Kiểm lâm với các ban, ngành liên quan trong tỉnh, thiếu kết nối thông tin giữa các cơ quan liên quan. “Trước những khó khăn, vướng mắc trong thực thi Nghị định 102/2020/NĐ-CP, Bộ NN&PTNT sẽ đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định này vào năm 2023”, ông Nguyễn Văn Tiến nói.