Các khu vực tư nhân đang thực hiện một số sáng kiến để giảm bớt tác động đến khí hậu.
Ngành vận tải biển chiếm gần 3% tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới, sản sinh ra lượng carbon dioxide nhân tạo nhiều bằng tất cả các nhà máy nhiệt điện than ở Mỹ cộng lại. Tuy nhiên, đó là một sản lượng tương đối nhỏ trong toàn ngành giao thông vận tải, vốn là nguyên nhân tạo ra 37% lượng khí nhà kính toàn cầu hàng năm.
Khi thương mại quốc tế tiếp tục phát triển và phụ thuộc rất nhiều vào các tàu viễn dương để vận chuyển hàng hóa, hiện chúng chuyên chở hơn 80% hàng hóa, một số nhà khoa học cảnh báo rằng vào năm 2050, vận tải biển có thể chiếm 17% lượng khí nhà kính.
Đó là lý do tại sao, sau nhiều năm nỗ lực mờ nhạt để khử carbon, cơ quan quản lý của ngành đang vào cuộc. Vào năm 2018, Tổ chức Hàng hải Quốc tế, hay IMO, một cơ quan của Liên hợp quốc có trụ sở tại Luân Đôn bao gồm 175 quốc gia thành viên đã thông qua chiến lược giảm 50% khí nhà kính vào năm 2050 so với mức độ đề xuất vào năm 2008.
Các nhà phê bình cho rằng mục tiêu đó là quá thấp và quá muộn màng, họ yêu cầu IMO đặt lại mục tiêu của mình thành khử carbon 100% vào giữa thế kỷ này, hoặc tốt nhất là sớm hơn nữa.
Bà Lucy Gilliam, quan chức chính sách vận chuyển tại Seas at Risk và là thành viên hội đồng quản trị của Clean Shipping Coalition, cả hai tổ chức phi chính phủ về môi trường, cho biết IMO đã tham gia khá muộn trong việc phát triển các biện pháp khí hậu và đưa ra chiến lược. Thêm vào đó, một nghiên cứu thấy chỉ có 33 trong số 94 công ty vận tải biển lớn nhất có chính sách đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và/hoặc đã cam kết với mục tiêu của IMO.
Các giải pháp vận chuyển xanh đơn giản nhất
Các khu vực tư nhân đang thực hiện một số sáng kiến để giảm bớt tác động đến khí hậu. Giải pháp đơn giản nhất là làm cho các con tàu giảm tốc độ, từ đó sử dụng ít nhiên liệu thải carbon hơn. Các nhà đóng tàu cũng đang thử nghiệm với thân tàu được phủ bong bóng khí để giảm lực cản, cũng như tạo kiểu dáng đẹp hơn, động cơ, chân vịt và lực đẩy hiệu quả hơn, và hệ thống định vị hỗ trợ AI.
Trong khi đó, ngành công nghiệp đang bắt đầu thiết lập các hành lang xanh, hoặc các tuyến vận tải biển và cảng cụ thể hỗ trợ các giải pháp và chính sách không phát thải. Thế giới tài chính cũng đang tham gia phong trào khử carbon, với 29 tổ chức ký kết Nguyên tắc Poseidon, một thỏa thuận xem xét các nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính khi cho các công ty vận tải vay vốn. Các bên ký kết đại diện cho các khoản vay hơn 185 tỉ USD cho vận tải biển quốc tế – gần một nửa danh mục đầu tư tài chính tàu biển toàn cầu.
Nhưng với một chuỗi cung ứng toàn cầu được thiết kế để giao hàng nhanh chóng, các cuộc đặt cược mang tính đột phá lớn đang được thực hiện vào việc phát triển các nhiên liệu phát thải thấp hoặc không phát thải – bao gồm metanol xanh, hydro, khí tự nhiên lỏng (LNG) và amoniac – để giảm hoặc thay thế nhiên liệu hầm độc hại, đặc như mật đường, cung cấp năng lượng cho hầu hết các động cơ diesel lớn của tàu.
Sự trở lại của tàu chở hàng chạy bằng sức gió
Tất nhiên, những con tàu chở hàng đầu tiên chỉ chạy trên biển nhờ năng lượng gió, một khái niệm đang được hiện đại hóa ngày nay.
Một trong số các hệ thống trợ gió đầu tiên có từ năm 1920, có hình trụ cao giống như khói, được gắn trên boong tàu, quay nhanh theo gió và đẩy tàu về phía trước. Trong số các ứng dụng gần đây, công ty khai thác mỏ BHP của Úc đang hợp tác với Pan Pacific Copper và Nippon Marine để thử nghiệm hệ thống buồm cánh quạt trên tàu chở hàng rời.
Cargill, công ty thực phẩm và nông nghiệp khổng lồ điều hành hơn 600 tàu chở hàng rời, sẽ thử nghiệm một con tàu được trang bị WindWings, những cánh buồm vững chắc do BAR Technologies thiết kế. Ông Jan Dieleman, chủ tịch kinh doanh Vận tải Đại dương của Cargill cho biết: “Thông qua quan hệ đối tác này, chúng tôi sẽ mang đến các giải pháp gió riêng cho những khách hàng đang tích cực tìm cách giảm lượng khí thải CO2 từ chuỗi cung ứng của họ. Công ty được cho là có kế hoạch thuê ít nhất 20 tàu hỗ trợ gió mới trong những năm tới.