Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều điểm mới, chính thức có hiệu lực từ 1/1/2022, từ đó đến nay các quy định của Luật này đang được hiện thực hóa và bước đầu đã ghi nhận những thay đổi tích cực từ cộng đồng doanh nghiệp đối với công tác BVMT.
Bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường (BVMT) là một trong ba trụ cột phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến công tác BVMT với phương châm không đánh đổi môi trường bằng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trước mắt và đã có nhiều biện pháp, chính sách cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trên tinh thần đó, Luật BVMT 2014 ra đời đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công tác BVMT trong hơn 5 năm qua, đóng góp quan trọng cho các thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội, được nhân dân ghi nhận, bạn bè quốc tế đánh giá cao, coi đây như một mô hình phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững.
Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực thi, tình hình đất nước và trên thế giới hiện nay đã có những biến đổi sâu rộng, nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Từ những vấn đề, thách thức mới phát sinh từ thực tiễn cuộc sống và để đáp ứng yêu cầu hội nhập trong thời kỳ mới đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Luật.
Mục tiêu là thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, đặc biệt là Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; cải cách thể chế môi trường của Việt Nam tiệm cận hài hòa với chính sách pháp luật BVMT trên thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và bối cảnh quốc tế đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu cao nhất là cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế bền vững.
Trước tình hình đó, để phù hợp với tình hình tiễn, dự thảo luật BVMT mới đã được soạn thảo xây dựng, sau nhiều phiên thảo luận, lấy ý kiến đóng góp của nhiều Bộ, ban ngành có liên quan, ngày 17/11/2020, Quốc hội đã thông qua Luật BVMT, theo đó Luật BVMT năm 2020 gồm 16 chương, 171 điều (giảm 04 chương, tăng 01 Điều so với luật BVMT năm 2014), Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022 (riêng tại Khoản 3 Điều 29 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2021).
Luật BVMT sửa đổi với nhiều điểm mới
Luật BVMT 2020 về cơ bản đã kế thừa phát huy các yếu tố tích cực trong việc thực hiện các quy định pháp luật về BVMT thời gian qua (BVMT), bổ sung các nội dung mới, khắc phục các tồn tại, hạn chế và bất cập về BVMT của các quy định trước đây. Luật BVMT năm 2020 đã đưa các quy định về bảo vệ của các thành phần môi trường trước tiên, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân là nội dung trọng tâm, quyết định cho các chính sách BVMT khác. Luật cũng đã đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án. Luật BVMT 2020 có những điểm mới và các quy định chính như sau:
Một số nội dung về giải thích thuật ngữ và quy định chung trong luật: Luật BVMT (BVMT) 2020 có 38 nội dung về giải thích thuật ngữ, tăng 9 nội dung so với luật BVMT 2014, trong đó có các nội dung mới như: Đánh giá sơ bộ tác động môi trường; đăng ký môi trường; chất ô nhiễm khó phân hủy; vận hành thử nghiệm công trình xử lý chất thải; cộng đồng dân cư; hạn ngạch phát thải khí nhà kính… Đặc biệt, Luật BVMT 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư” vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan trọng này trong công tác BVMT cũng như thực hiện một trong những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo người dân được sống trong môi trường trong lành. Ngoài ra, Luật cũng quy định về: Nguyên tắc BVMT; Chính sách Nhà nước về BVMT; Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động BVMT… được thể hiện tại Điều 3 đến Điều 6 trong Luật.
BVMT di sản thiên nhiên: Luật đã dành một Mục riêng (Mục 4, chương II) để quy định về BVMT di sản thiên nhiên, trong đó có các quy định về di sản thiên nhiên; việc xác lập, công nhận di sản thiên nhiên; các nội dung về BVMT di sản thiên nhiên (điều tra, đanh giá, quản lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ di sản thiên nhiên).
Ban hành Tiêu chí môi trường để phân loại dự án đầu tư, đánh giá sơ bộ tác động môi trường: Luật BVMT 2020 đã ban hành một mục riêng (Mục 2, chương IV), từ Điều 28 đến Điều 29 để quy định tiêu chí về môi trường để phân loại dự án đầu tư, theo đó dự án đầu tư được phân thành 04 (bốn) nhóm để thực hiện các thủ tục pháp lý về BVMT theo quy định; Ngoài ra, Luật cũng quy định nhóm đối tượng dự án phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường.
Tăng cường công khai thông tin, tham vấn, phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong các hoạt động BVMT: Vấn đề công khai thông tin đã được quy định xuyên suốt, thống nhất trong Luật BVMT 2020 theo các nội dung cụ thể về BVMT trong các Chương của Luật, cùng với một khoản riêng quy định việc cung cấp, công khai thông tin về môi trường. Đối với việc thẩm định phê duyệt các báo cáo Đánh giá tác động môi trường các vấn đề về tham vấn ý kiến đối với dự án, công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng được quy định cụ thể tại các Điều 36, 37, 38 Luật BVMT, nhằm đảm bảo nguyên tắc BVMT theo quy định tại Điều 4 Luật BVMT 2020. Luật cũng đã quy định trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn ý kiến các bên có liên quan.
Giấy phép Môi trường: Lần đầu tiên, Luật BVMT ban hành một Mục riêng (Mục 4, chương IV) để quy định về Giấy phép môi trường, được quy định từ Điều 39 đến Điều 49. Theo đó, có 03 (ba) nhóm quy định thuộc đối tượng phải có Giấy phép môi trường; ngoài ra, các vấn đề về: nội dung giấy phép môi trường; thẩm quyền cấp giấy phép; căn cứ và thời điểm cấp giấy phép; hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép; cấp đổi, điều chỉnh, cấp lại, tước quyền sử dụng, thu hồi giấy phép môi trường; quyền, nghĩa vụ của chủ dự án được cấp giấy phép môi trường; trách nhiệm của các cơ quan cấp giấy phép môi trường…Đặc biệt, Luật cũng quy định kể từ ngày Giấy phép môi trường có hiệu lực, quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường thành phần hết hiệu lực (khoản 6, Điều 42).
BVMT theo ngành, lĩnh vực: BVMT theo ngành, lĩnh vực được quy định trong một chương của Luật BVMT từ Điều 50 đến Điều 71. Trong đó quy định các vấn đề: BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ; BVMT đô thị và nông thôn; BVMT trong một số lĩnh vực… Đặc biệt đối với nội dung BVMT nông thôn, Luật đã quy định các yêu cầu về BVMT nông thôn, trách nhiệm về BVMT nông thôn của các cơ quan và tổ chức có liên quan.
Quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác: Các nội dung về quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác được quy định từ Điều 72 đến Điều 88, trong đó các vấn đề về quản lý chất thải rắn sinh hoạt được quy định cụ thể và rõ ràng hơn: quy định về việc phân loại, lưu giữ, chuyển giao; chi phí thu gom vận chuyển; xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt…theo đó các quy định hướng tới thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại nguồn, nếu không thực hiện việc này thì chi phí xử lý chất thải rắn sinh hoạt phải nộp sẽ cao, định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải… Ngoài ra, Luật cũng quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Cụ thể hóa các quy định về ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH), thúc đẩy phát triển thị trường carbon trong nước: Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozon, trong đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành liên quan và địa phương về thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ozon, được thể hiện từ Điều 90 đến Điều 96 của Luật.
Lần đầu quy định về phát triển kinh tế môi trường, kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý môi trường: Luật BVMT 2020 đã bổ sung nội dung về phát triển kinh tế môi trường, kiểm toán môi trường nhằm tăng cường nguồn lực, năng lực, hiệu quả quản lý môi trường. Trong đó có các quy định về: chính sách về phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; mua sắm xanh; khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự nhiên; kinh tế tuần hoàn… được thể hiện tại các Điều 142 đến Điều 147. Luật BVMT cũng đã bổ sung quy định Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước và pháp luật có liên quan tại Điều 160 Luật BVMT.
Ngoài các quy định trên, Luật BVMT 2020 cũng đã kế thừa, bổ sung để tiếp tục thực hiện các quy định như: BVMT các thành phần môi trường; chiến lược BVMT, quy hoạch BVMT, đánh giá tác động môi trường; quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường; quan trắc, thông tin dữ liệu và báo cáo môi trường; phòng ngừa, ứng phó sự cố và bồi thường thiệt hại về môi trường; chính sách và nguồn lực BVMT; hội nhập, hợp tác quốc tế về BVMT; trách nhiệm Mặt trận tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong BVMT; thanh tra, kiểm tra, xư lý vi phạm, khiếu nại, tố cáo về môi trường; trách nhiệm quản lý Nhà nước về BVMT… để các cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, cá nhân thực hiện.
Doanh nghiệp chú trọng hơn trong công tác BVMT
Để hiện thực hóa các điều Luật, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Công ty Cổ phần Phát triển đô thị Sài Gòn Tây Bắc (Công ty SCD) – Chủ đầu tư của KCN Tân Phú Trung luôn chú trọng đến công tác BVMT, thực hiện nghiêm các quy định pháp Luật về môi trường theo Luật BVMT.
Theo đó, Công ty SCD đã xây dựng Nhà máy xử lý nước thải (XLNT) tập trung giai đoạn 1, công suất thiết kế 4.000 m3/ngày, đêm, hoạt động 24/7 và xuyên suốt 365 ngày, đảm bảo nước thải của tất cả các doanh nghiệp trong KCN sau xử lý đều đạt Quy chuẩn loại A (QCVN 40:2011-MTNMT) trước khi xả thải ra hệ thống kênh TC-2.17.
Song song với đó, KCN nghiêm chỉnh chấp hành việc phân loại rác thải tại nguồn; đã đầu tư và lắp đặt trạm quan trắc nước thải tự động, quan trắc các thông số như: pH, lưu lượng TSS, COD thể hiện các chỉ tiêu song song với Trạm quan trắc nước thải tự động của Chi cục BVMT, nhằm kiểm soát tốt chất lượng nước thải đầu ra 24/7 và 365 ngày trong năm; hợp đồng với đơn vị có chức năng thu gom, xử lý, chuyển giao chất thải nguy hại, quản lý chứng từ chất thải nguy hại; thực hiện báo cáo quản lý chất thải nguy hại đúng và đầy đủ; thực hiện kê khai phí BVMT và đóng phí BVMT định kỳ hàng quý đúng quy định.
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động có phát sinh khí thải, chủ đầu tư luôn nhắc nhở để các doanh nghiệp có biện pháp cải tiến quy trình sản xuất, đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý khí thải, khống chế ô nhiễm tại nguồn; thường xuyên giám sát nồng độ các chất ô nhiễm tại các điểm xả thải và các nhà máy có khả năng gây ô nhiễm nặng, hạn chế tối đa phát tán ra môi trường không khí xung quanh. Ngoài ra, KCN cũng trồng cây xanh dọc theo trục các tuyến đường nội bộ và cây xanh vành đai để hấp thụ không khí, cải thiện chất lượng môi trường.
Chia sẻ với Phóng viên Kinh tế môi trường, ông Tạ Bảo Long – Giám đốc Truyền thông Công ty Cổ phần Tetra Pak Việt – một doanh nghiệp chuyên cung cấp các giải pháp đóng gói thực phẩm dạng lỏng tại Việt Nam cho biết, với ưu tiên chiến lược là BVMT, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn, ít phát thải carbon trong quá trình sản xuất hộp giấy của nhà máy phải giảm thiểu việc phát thải khí nhà kính.
“Tại Nhà máy Tetra Pak Binh Dương, chúng tôi đang áp dụng tiêu chuẩn LEED vàng phiên bản 4, là cấp tiêu chuẩn mới và khắt khe nhất được quốc tế công nhận. Để đạt được chứng chỉ này thì ngay từ khâu thiết kế, cho đến xây dựng và vận hành, Nhà máy đã phải tính đến các yếu tố về sử dụng nguyên liệu, năng lượng, rác thải, chất lượng không khí… Nhà máy cũng tích hợp những công nghệ mới nhất và các tiêu chuẩn sản xuất tốt nhất, lấy an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm và tính bền vững làm trọng tâm. Nhờ vậy, hàng năm, nhà máy có thể tiết kiệm tới 36% năng lượng tiêu thụ, tái sử dụng 21 triệu lít nước và cắt giảm phát thải khoảng 4.000 tấn CO2, tương đương với lượng phát thải của 200 chuyến bay vòng quanh thế giới.
Lợi ích cho môi trường là rất rõ ràng và điều đó cũng giúp các nhà sản xuất, người tiêu dùng yên tâm sử dụng những sản phẩm có ưu thế về môi trường”- ông Tạ Bảo Long chia sẻ.
Cùng với việc áp dụng công nghệ trong sản xuất thì từ năm 2018, Tetra Pak Việt Nam cũng đã phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM, các trường tiểu học và mầm non trên địa bàn TP triển khai thí điểm Chương trình phân loại, thu gom, tái chế vỏ hộp sữa tại 30 trường. Đến nay, Tetra PakViệt Nam tiếp tục mở rộng Chương trình đến 600 trường tại TP.HCM và 800 trường tại Hà Nội.
Là một doanh nghiệp chuyên về xử lý rác thải sinh hoạt tại khu vực TP.HCM, Công ty Cổ phần Vietstar cũng là một trong những doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong việc chuyển đổi công nghệ xử lý rác, hướng đến mục tiêu kinh tế xanh, bền vững.
Cũng chia sẻ với Phóng viên, ông Ngô Như Hùng Việt – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Vietstar cho biết, trong quá trình hoạt động, công ty luôn chú trọng đến công tác BVMT và đời sống của người dân khu vực quanh Nhà máy. Đặc biệt, từ khi Luật BVMT 2020 chính thức có hiệu lực, công ty đã đề ra những kế hoạch rất cụ thể như nhanh chóng hoàn tất những thủ tục pháp lý để tiến hành xây dựng nhà máy xử lý đốt rác phát điện, nâng công suất xử lý rác từ 1.200 tấn/ ngày lên 2.000 tấn/ngày
Chủ động đề nghị những kế hoạch giải quyết rác thải trong giai đoạn 2021-2025 cụ thể như: Năm 2021, tăng khối lượng rác xử lý lên 3.000 – 4.000 tấn/ngày cho Vietstar từ các quận, huyện lân cận, giảm thiểu chuyên chở xa về Đa Phước. Năm 2022, tăng lượng rác lên 6.000 tấn/ngày cho Vietstar; chuyển đổi các bãi rác để ngừng chôn lấp rác tươi và chỉ lưu chứa các loại rác vô cơ không gây ô nhiễm. Năm 2023-2024, tăng rác lên 8.000 – 10.000 tấn/ngày cho Vietstar; phần còn lại nếu có sẽ được chứa tạm tại các bãi rác khác. Năm 2025, ngừng chôn lấp rác tươi 100%. Tất cả rác của TP.HCM sẽ được xử lý qua tái chế và đốt phát điện.
“Vietstar luôn chủ động đề xuất với TP những kế hoạch mang tính định hướng lâu dài trong vấn đề xử lý rác thải. Công ty tự nguyện đầu tư chi phí, nhân lực, vật lực để đầu tư trang thiết bị, xây dựng nhà máy xử lý rác tiên tiến, hiện đại bậc nhất giúp TP giải quyết nỗi lo rác thải sinh hoạt, chỉ mong rằng cơ quan chức năng TP.HCM ủng hộ, giúp sức bằng cách đẩy nhanh các thủ tục pháp lý có liên quan để những mục tiêu của Vietstar hoàn thành đúng thời gian đã đề ra.
Kế hoạch của Vietstar không chỉ là giải quyết lượng rác đang nhận bây giờ (khoảng 2.000 tấn/ngày), mà đang mạnh mẽ đầu tư để giải quyết triệt để 8.000 – 10.000 tấn rác/ngày cho TP trong tương lai gần (trước 2025) nếu có sự hỗ trợ đồng hành và nhanh chóng của chính quyền. Đây là một phần chính yếu của chiến lược ‘’Môi Trường Thông Minh’’ mà Vietstar đang đề xướng cho TP.HCM”- ông Việt nói.
Là doanh nghiệp Khoa Học Công Nghệ chuyên sản xuất gạch bê tông theo công nghệ ép tĩnh, Công ty TNHH Gạch Ống Không Nung Ngôi Sao Bình Dương (Gạch không nung Ngôi sao) cũng đặt mục tiêu BVMT lên hàng đầu. Từ mục tiêu này, quá trình hoạt động Công ty Gạch không nung Ngôi sao đang dùng các loại phế phẩm như tro xỉ lò hơi, bụi đá, mạt đá của mỏ đá xây dựng làm cốt liệu trộn với xi-măng làm chất kết dính để sản xuất ra viên gạch ống không nung xi-măng cốt liệu phục vụ cho các công trình xây dựng các tỉnh như Bình Dương, TP.HCM, Long An.
Theo ông Nguyễn Chí Dũng – Giám đốc Công ty Gạch không nung Ngôi sao cho biết: “Gạch không nung xi-măng cốt liệu là giải pháp để xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường bằng công nghệ liên kết hóa rắn thành khối cho nguồn tro bay xỉ than, hạt nix thải, xỉ lò luyện kim, bụi đá nghiền,xà bần (chất thải rắn công nghiệp không nguy hại)… Dùng chúng làm cốt liệu thay cho cát để sản xuất gạch không nung xi-măng cốt liệu. Từ đó sẽ giải quyết được hai vấn đề lớn về môi trường, là thay thế gạch xây đất sét nung không xả thải CO2 và xử lý chất thải rắn công nghiệp.
Luật BVMT 2020 có nhiều điểm mới, trong đó có việc nâng cao trách nhiệm của chủ nguồn thải. Tuy nhiên, để thể trách nhiệm quyết liệt của chủ nguồn thải đối môi trường, chúng tôi đề nghị phải đưa mục tiêu tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp thông thường thành vật liệu xây dựng vào trong trình tự cấp phép môi trường đối với dự án, thẩm quyền quản lý Nhà nước được thống nhất, nâng cao trách nhiệm của bộ máy chính quyền địa phương…”
Vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thực thi
Chia sẻ về những khó khăn trong thực thi Luật BVMT năm 2020, Giám đốc nhà máy Công ty TNHH Nhựa và hóa chất TPC VINA (H.Long Thành), ông Nguyễn Đạo Hữu cho rằng, theo quy định cũ, công ty phải lắp đặt thiết bị quan trắc tự động nước thải sau xử lý. Tuy nhiên, quy định mới buộc công ty phải lắp thiết bị quan trắc cả đầu vào lẫn đầu ra. Như vậy, công ty sẽ phải đầu tư thêm rất nhiều đầu dò, thêm chi phí vận hành và bảo dưỡng định kỳ.
Cũng theo ông Tạo, công ty đang vận hành dây chuyền sản xuất nhựa PVC công suất 190 ngàn tấn/năm, là đối tác của nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước nên các vấn đề hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm và môi trường rất được coi trọng. Công ty có 3 nguồn thải có thể gây ô nhiễm môi trường. Đối với nước thải, trung bình mỗi ngày công ty phát sinh khoảng 1,5 ngàn m3, công ty đã đầu tư 2 hệ thống tự xử lý nước thải theo tiêu chuẩn loại B, sau đó xả ra sông Thị Vải, đầu tư hệ thống quan trắc tự động nước thải từ năm 2013 và kết nối với Sở TN&MT để giám sát. Về khí thải, công ty có lò hơi đốt than 22 tấn/giờ, công ty có hệ thống xử lý khí, lắp đặt quan trắc tự động. Chất thải rắn không nhiều nhưng cũng được phân loại, đấu thầu với các đơn vị có chức năng xử lý theo quy định.
Đại diện một công ty ngành dệt nhuộm tại H.Long Thành cho rằng, việc lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động nước thải là cần thiết cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan chuyên môn trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, nhiều doanh nghiệp còn chưa thực hiện thì chỉ nên yêu cầu lắp thiết bị quan trắc tự động nước thải đầu vào, yêu cầu kết nối đến cơ quan chức năng để giám sát chất lượng nước sau xử lý. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước cần định hướng cho doanh nghiệp loại thiết bị nào phù hợp, quy trình và công nghệ kết nối được với hệ thống giám sát của Sở TN&MT.
Ông Văn Chinh, quản lý môi trường Công ty TNHH Schaeffler Việt Nam (KCN Amata) cho rằng, Luật và các Nghị định hướng dẫn khuyến khích cơ sở tái sử dụng nước thải phát sinh nhưng quy trình, quy chuẩn, thủ tục rất khó áp dụng. Cùng loại nước thải đã xử lý theo tiêu chuẩn cột A, doanh nghiệp muốn tái sử dụng cho sản xuất công nghiệp phải xin giấy phép của Bộ TN&MT, muốn đưa nước ra tưới cây trong khuôn viên nhà máy phải xin phép Bộ NN&PTNT. Hiện nay chưa có hướng dẫn kỹ thuật cho việc tái sử dụng nước thải công nghiệp cho mục đích: Tưới cây, dội nhà vệ sinh, sản xuất công nghiệp.
Một số doanh nghiệp cho rằng, quy định lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải nên hướng vào trọng tâm là kiểm soát chất lượng nước thải sau xử lý (hậu kiểm), không cần thiết giám sát nước thải đầu vào. Bởi, mỗi cơ sở có rất nhiều loại nước thải, mỗi nhà máy xử lý nước thải KCN tiếp nhận nước thải nhiều cơ sở khác nhau, nếu mỗi vị trí đầu vào phải có thiết bị quan trắc thì rất tốn kém mà hiệu quả thấp. Ngoài ra, cần có hướng dẫn chi tiết việc tái sử dụng nước thải trong phạm vi cơ sở để tiết kiệm nguồn tài nguyên nước, giảm cấp nước.
Cho ý kiến về Luật BVMT 2020, TS Hoàng Dương Tùng, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT cho rằng, vẫn còn nhiều hạt sạn trong Luật, thậm chí có điểm là bước “đột phá lùi”.
Cụ thể, quy định “đối với các thông số đã được quan trắc tự động liên tục thì không phải quan trắc định kỳ” tại điều 111 về quan trắc nước thải và điều 112 về quan trắc khí thải là bước… “đột phá lùi”. “Vì nó ngược với các Luật BVMT trước đây, ngược với thế giới, ngược với khoa học. Những người làm môi trường ai cũng biết quan trắc tự động, liên tục từ cổ chí kim chưa bao giờ thay thế được quan trắc định kỳ đối với các thông số được quy định trong các quy chuẩn, tiêu chuẩn đã ban hành. Đơn giản là vì cho đến nay, trên thế giới quan trắc tự động chưa được công nhận là phương pháp tiêu chuẩn giống như phương pháp định kỳ”, TS Tùng cho biết. Theo TS Tùng, quan trắc tự động rất cần để theo dõi cảnh báo đối với nguồn thải lớn, nhưng không dùng để thanh tra xử phạt. “Trên thế giới không Luật BVMT nào dám quy định như Luật BVMT sửa đổi vừa thông qua, kể cả ở những nước có công nghệ tiên tiến, nước phát triển. Ngay từ khi dự thảo, dù đã có nhiều ý kiến chuyên gia góp ý đề nghị bỏ, nhưng Bộ TN&MT vẫn cương quyết đưa vào”, TS Tùng nói. Cũng theo TS Tùng, tại điều khoản về việc công khai Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) tiếp tục không được chỉnh sửa sau nhiều đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức xã hội. Cụ thể, theo khoản 2 điều 38 dự thảo Luật vừa được thông qua quy định cơ quan thẩm định báo cáo ĐTM “công khai trên cổng thông tin điện tử quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, trừ các thông tin liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy định của pháp Luật”. Như vậy, cơ quan thẩm định ĐTM chỉ công khai quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM. Việc công khai báo cáo ĐTM được đẩy sang vai chủ đầu tư dự án theo khoản 5 điều 37 của Luật này. |