Theo PGS.TS Lưu Đức Hải, điểm cốt lõi trong việc xây dựng mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước tại thôn Dy chính là xây dựng hương ước.
Sáng 10/5, tại Cung Trí thức Hà Nội, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam đã tổ chức Hội thảo chuyên gia với chủ đề: “Mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước khu vực vườn quốc gia Ba Vì”.
Tham dự Hội thảo có PGS.TS Trương Mạnh Tiến – Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên Hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; PGS.TS Lưu Đức Hải – Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam; GS.TS Hoàng Xuân Cơ – Trưởng ban nghiên cứu khoa học, Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam; TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hương cùng nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Kinh tế Môi trường.
Tại Hội thảo, ThS. Nguyễn Quang Khải trình bày khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và môi trường khu vực vườn Quốc gia (VQG-PV) Ba Vì và vùng đệm.
Theo đó, khu vực rừng cấm VQG Ba Vì hầu như không có dân cư sống tập trung, nhưng ở các xã vùng đệm thì mật độ dân cư tương đối cao. Người dân các xã chủ yếu làm nông nghiệp trồng lúa nước và các cây hoa màu.
Hoạt động kinh tế của người dân tại các xã vùng đệm VQG Ba Vì (phần lớn là trồng trọt và chăn nuôi) đã khiến môi trường chịu nhiều tác động, đặc biệt là nguy cơ ô nhiễm nguồn nước.
Mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước
Từ vấn đề trên, PGS.TS Lưu Đức Hải đã trình bày “Mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước khu vực VQG Ba Vì – Thí điểm tại xóm Dy, xã Minh Quang”.
Qua nghiên cứu khái quát, vùng đệm VQG Ba Vì có diện tích 35.000 ha thuộc 15 xã của huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oại, Lương Sơn; trong đó 7 xã quan trọng nhất thuộc huyện Ba Vì bao quanh núi Ba Vì là: Khánh Thượng, Minh Quang, Ba Vì, Ba Trại, Tản Lĩnh, Vân Hòa, Yên Bài.
Chất lượng nước sông suối khu vực Ba Vì ở độ cao trên 100m nhìn chung đều tốt (trừ hai điểm là hồ Tiên Sa chảy qua mỏ Đồng cốt 265 và suối Cái xã Minh Quang chảy qua mỏ Pirit Minh Quang). Chất lượng nước sông suối sau khi ra khỏi VQG chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hoạt động dân sinh nên bị ô nhiễm khá cao.
Trước thực tế trên, nhóm nghiên cứu đã thực hiện thí điểm mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước tại thôn Dy, xã Minh Quang.
Thôn Dy là một thôn trực thuộc xã Minh Quang, nằm phía Đông của dãy núi Ba Vì, cách Đá Chông khoảng hơn 1km. Thôn có 200 hộ dân với khoảng gần 1000 nhân khẩu sinh sống và trong số đó là 80% số hộ là người dân tộc Mường, số còn lại là người Kinh và người Dao.
Dân cư của thôn chủ yếu làm nghề sản xuất nông nghiệp với ba loại cây trồng chính là ngô, lúa, chè và một số vật nuôi truyền thống như lợn, gà mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân.
Hệ thống thủy lợi tưới tiêu cho việc sản xuất nông nghiệp của thôn đều phụ thuộc chính từ hai con suối chảy từ VQG Ba vì cung cấp nguồn nước tưới cho cây trồng và từ đây chảy ra theo hệ thống suối thoát nước tới địa phận xã Ba Trại. Chất lượng môi trường nước có sự suy thoái rất lớn giữa đầu nguồn và và cuối nguồn nước thôn Dy.
Các tác nhân tác động đến nguồn nước chảy qua thôn Dy gồm: Chặn dòng lấy nước cho cá nhân hộ gia đình nuôi cá, chăn nuôi dẫn tới giảm lưu lượng nước; Xả nước thải chưa xử lý và rác thải xuống suối gây ô nhiễm dòng chảy; Kè lấn dòng chảy gây cản trở thoát nước về mùa mưa lũ .
Xây dựng hương ước
Theo PGS.TS Lưu Đức Hải, điểm cốt lõi trong việc xây dựng mô hình cộng đồng quản lý và bảo vệ nguồn nước tại thôn Dy chính là xây dựng hương ước quy định tất cả các hoạt động của cộng đồng dân cư xóm Dy. Lấy hương ước làm cơ sở cho việc người dân thực hiện các hoạt động không gây ra các tác động tiêu cực đến nguồn nước.
Xử lý thí điểm nước thải chăn nuôi và nước thải sinh hoạt đối với một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế bằng hệ thống biogas để làm mẫu hình cho các hộ gia đình có điều kiện kinh tế tốt hơn học tập.
Đầu tư thí điểm các thùng rác và hướng dẫn người dân phân loại rác tại nguồn nhằm ngăn chặn triệt để việc xả rác thải sinh hoạt và các chất thải xuống suối gây ô nhiễm nguồn nước, tạo ra phong trào cộng đồng thu gom và phân loại rác.
Quy định các hoạt động kè bờ, nắn chỉnh dòng chảy làm mất nguồn nước hay cản trở thoát nước về mùa mưa lũ (lấy theo quy định của TP. Hà Nội về quản lý dòng chảy kênh mương).
Để xây dựng hương ước, bước đầu tiên là thành lập Nhóm soạn thảo và tổ chức soạn thảo hương ước gồm các thành phần: Trưởng thôn cùng Bí thư Chi bộ, Trưởng Ban công tác Mặt trận. Trên cơ sở đó thống nhất các nội dung cơ bản cần soạn thảo.
Bước hai, tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức và nhân dân vào dự thảo hương ước, quy ước: Họp thảo luận ở tổ, đội sản xuất, tổ dân phố, ngõ xóm, nhóm các hộ gia đình, họp thảo luận ở các tổ chức đoàn thể ở thôn, làng, ấp, bản, cụm dân cư; niêm yết để thu thập ý kiến đóng góp.
Bước ba, thảo luận và thông qua hương ước, quy ước: Tại Hội nghị cử tri hoặc Hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Hội nghị này chỉ tiến hành khi có ít nhất là 2/3 tổng số thành phần cử tri hoặc đại biểu hộ gia đình tham dự. Hương ước, quy ước được thông qua khi có ít nhất quá 1/2 số người dự họp tán thành.
Bước bốn, phê duyệt hương ước, quy ước: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã cùng Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã xem xét nội dung của hương ước, quy ước bảo đảm phù hợp với pháp luật, thuần phong, mỹ tục và trao đổi thống nhất trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt.
Uỷ ban nhân dân cấp xã có tránh nhiệm chuyển hương ước, quy ước đã được phê duyệt để Trưởng thôn niêm yết, tuyên truyền, phổ biến đến từng thành viên trong cộng đồng dân cư và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước.
Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội ở cơ sở chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung của hương ước, quy ước; kiểm tra, phát hiện và kịp thời chấn chỉnh những sai trái, lệch lạc, tiêu cực trong việc thực hiện hương ước, quy ước, định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp việc thực hiện hương ước, quy ước ở địa phương.
Hàng năm, cần tổ chức kiểm điểm việc thực hiện hương ước, quy ước. Trong trường hợp cần sửa đổi, bổ sung thì do Hội nghị cử tri hoặc Hội nghị đại biểu hộ gia đình thảo luận. Việc sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước cũng phải tuân theo trình tự, thủ tục như khi soạn thảo hương ước, quy ước mới.
Nội dung hương ước
Về nội dung của hương ước, TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hương – Viện Khoa học Môi trường đã đề xuất xây dựng 14 điều dựa trên căn cứ pháp lý gồm: Luật Tài nguyên nước 2012; Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 42/2015/NĐ-CP quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước. |