Hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: Ô nhiễm môi trường, suy giảm sinh học và biến đổi khí hậu. Từ đó, kiểm toán môi trường ra đời và trở thành công cụ quản lý sắc bén và hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Công cụ quản lý sắc bén
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế nằm trong top đầu khu vực châu Á, do đó phải đối mặt với những sức ép từ quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số,… đồng nghĩa với lượng chất thải cũng gia tăng.
Trước vấn đề môi trường hiện nay, kiểm toán môi trường (KTMT) được nhìn nhận như là một công cụ cung cấp các thông tin về môi trường, làm cơ sở cho các đánh giá khả năng rủi ro về môi trường mà doanh nghiệp gây ra, nghĩa vụ môi trường của doanh nghiệp, cũng như mức độ thỏa mãn đối với các tiêu chuẩn hoặc luật lệ về môi trường.
KTMT giúp giảm các rủi ro về môi trường cũng như rủi ro về sức khỏe cộng đồng và cải thiện công tác quản trị môi trường ở mức độ doanh nghiệp. KTMT còn là một trong những công cụ hỗ trợ cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao nhận thức của các cá nhân, tổ chức sản xuất – kinh doanh trong bảo vệ môi trường bền vững.
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: Ô nhiễm môi trường, suy giảm sinh học và biến đổi khí hậu. Trước những tác động của biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quản lý, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường. Trong bối cảnh đó, KTMT ra đời và trở thành công cụ quản lý sắc bén và hiệu quả.
Thông qua việc triển khai công tác KTMT, Chính phủ sẽ thấy được mức độ tuân thủ các chế độ, chính sách hiện hành về quản lý và bảo vệ môi trường của đơn vị được kiểm toán, phát hiện được những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, như tồn tại trong việc lập, phân bổ và giao dự toán; những tồn tại trong việc chấp hành chế độ thu, chi, quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường; và tồn tại trong việc thực hiện kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, KTMT cũng chỉ ra những bất cập của các văn bản pháp luật liên quan đến việc quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường. Trên cơ sở những tồn tại, bất cập đã phát hiện được, kiểm toán viên sẽ đưa ra kiến nghị cụ thể đối với các đơn vị được kiểm toán và kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Chính phủ và Quốc hội.
Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới, KTMT là một phương pháp kiểm tra thông tin môi trường về một tổ chức, một cơ sở hoặc một trang web để xác minh số liệu, hoặc ở mức độ nào đó chúng tuân theo các tiêu chí kiểm toán cụ thể. Các tiêu chí có thể dựa trên các tiêu chuẩn môi trường địa phương, quốc gia hoặc toàn cầu. Vì vậy, nó là một quá trình có hệ thống thu thập và đánh giá thông tin về các khía cạnh môi trường (ASOSAI, 2013, trang 9).
Một cuộc KTMT có thể là kiểm toán chuyên đề hoặc kiểm toán toàn diện. Thông thường, nếu cuộc kiểm toán ở phạm vi rộng thì thường là kiểm toán chuyên đề, chẳng hạn như: Kiểm toán theo các nhân tố cấu thành nên ô nhiễm môi trường như kiểm toán lưu lượng và nồng độ khí thải, nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại của một nhà máy nào đó hoặc các nhà máy tại một địa phương, một quốc gia, một khu vực; Kiểm toán năng lượng; Kiểm toán các chất thải bệnh viện; Kiểm toán các chương trình môi trường của quốc gia…; hay Kiểm toán việc quản lý và sử dụng các khoản thu – chi, công tác lập, phân bổ dự toán, quyết toán kinh phí sự nghiệp môi trường… Nếu cuộc kiểm toán ở phạm vi hẹp, có thể là cuộc kiểm toán chuyên đề hay kiểm toán toàn diện về việc tổ chức, quản lý môi trường (hệ thống trang thiết bị và quá trình hoạt động) của một đơn vị.
Nâng cao nhận thức và hành động về bảo vệ môi trường
Trước những tác động của biến đổi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quản lý và bảo vệ môi trường. Theo đó, mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân đều phải có trách nhiệm thực hiện tốt để bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường.
Ngoài ra, qua việc thực hiện KTMT sẽ góp phần thúc đẩy đơn vị phát triển bền vững và bảo vệ môi trường chung theo hướng “sản xuất sạch hơn”.
Thông qua KTMT sẽ đưa ra kết luận, những con số cụ thể về hạn chế hoặc sai phạm trong quá trình và kết quả quản lý môi trường của đơn vị, chỉ ra những bất cập như rò rỉ khí đốt, rò rỉ điện… gây nên lãng phí năng lượng và ô nhiễm môi trường, hay vấn đề chất thải công nghiệp chưa được xử lý đúng yêu cầu. Những tồn tại đó vừa dẫn đến tăng chi phí, giảm lợi nhuận vừa dẫn đến ô nhiễm môi trường, và có thể doanh nghiệp phải chịu thêm khoản tiền phạt lớn hay ảnh hưởng xấu đến uy tín và vị thế cạnh tranh của đơn vị.
Những kết luận và kiến nghị của kiểm toán viên sẽ giúp cho đơn vị nhận thức rõ hơn tác dụng kép về kinh tế “giảm chi phí, tăng uy tín và hiệu quả hoạt động” của việc bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động. Theo đề xuất của kiểm toán viên, đơn vị có thể thiết kế quy trình sản xuất hợp lý hơn để tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu chất thải, thay thế bằng loại nguyên vật liệu phù hợp hơn để giảm thiểu chất thải rắn, chất thải khí, sử dụng trang thiết bị phù hợp để giảm thiểu phế liệu, phế thải…
Việc đánh giá và kết luận hiện trạng môi trường của doanh nghiệp đối với việc đảm bảo các yêu cầu cơ bản về sức khỏe con người, có thể sẽ đưa ra những cảnh báo về ô nhiễm môi trường đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán còn giúp ban quản lý và cán bộ công nhân viên trong đơn vị nhận thức rõ nguy cơ ô nhiễm môi trường sẽ ảnh hưởng xấu đến chính bản thân họ như nguy cơ bệnh nghề nghiệp, nguy cơ suy giảm sức khỏe, giảm sút năng suất lao động ngay trong đơn vị, đồng thời cũng ảnh hưởng xấu đến môi trường chung và sức khỏe cộng đồng.
Ông Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước, cho biết, trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng trong vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước đã và đang rất quan tâm và coi KTMT là một trong các hoạt động ưu tiên của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới.
PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, Viện trưởng Viện Chính sách Kinh tế Môi trường, cho rằng, tăng trưởng kinh tế thường đi kèm tăng rác thải. Kinh nghiệm của Đức hướng tới một nền kinh tế tuần hoàn là hết sức thiết thực. Cần xác định, rác thải giờ đây không chỉ đơn thuần là thứ bỏ đi mà phải là đầu vào của ngành sản xuất khác.
“Kiểm toán Nhà nước cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình trong KTMT. Kiểm toán cần thông kê cụ thể số lượng rác thải mỗi ngày, những loại rác thải… từ đó phương án đầu tư công nghệ, hướng tới mục tiêu rác thải về số 0”, PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh nhấn mạnh.
TS. Lê Đức Luận, Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước Khu vực VII, cho rằng, từ thực trạng công tác quản lý rác thải, nước thải có thể cho thấy còn nhiều bất cập và gây ra bức xúc trong cộng đồng. Tuy nhiên, ngoài các yếu tố khách quan có thể thấy nguyên nhân của các vấn đề lại do chính công tác quản lý chưa thực sự hiệu quả.
“Để thực hiện tốt công tác quản lý rác thải, nước thải để có môi trường không khí, đất và nước được sạch sẽ, trong lành, cần nâng cao hiệu quả, trách nhiệm công tác quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Góp phần thực hiện tốt công tác này cần thiết phải có sự tham gia của Kiểm toán Nhà nước trong việc đánh giá và tư vấn cho các cấp chính quyền, qua đó xây dựng được cơ chế, chính sách phù hợp và triển khai đồng bộ dựa trên điều kiện riêng của từng địa phương”, TS. Lê Đức Luận khẳng định. |