Mới chỉ có xấp xỉ 35% hộ dân ở nông thôn được tiếp cận nước máy. Doanh nghiệp không mặn mà đầu tư vào nước sạch vì giá thành thấp, ít được điều chỉnh trong khi rủi ro cao…
Chỉ 52% người dân được tiếp cận nước sạch
Sáng 26/4, hội thảo “Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam: Thị trường và các vấn đề chính sách” do Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) tổ chức diễn ra tại Hà Nội. Tọa đàm tập trung vào 3 vấn đề chính là hiện trạng tiếp cận dịch vụ nước sạch của người dân Việt Nam và kết quả thực hiện cam kết mục tiêu phát triển bền vững thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (SDG 6); Các vấn đề về thị trường nước sạch gồm nguồn cung, chất lượng, giá, khả năng tiếp cận nước sạch của người dân và đầu tư của khu vực tư nhân vào thị trường này; Các vấn đề pháp lý của thị trường dịch vụ nước sạch.
Đánh giá bước đầu về quyền tiếp cận nước sạch và thị trường nước sạch ở Việt Nam, ông Nguyễn Quang Đồng, Viện trưởng IPS cho biết, theo báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ hộ tiếp cận nước máy chỉ chiếm khoảng 52%. Đặc biệt, xem xét tỷ lệ này giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc có thể thấy sự chênh lệch rất lớn khi tỷ lệ hộ gia đình tại thành thị tiếp cận được nước máy đạt 84,2% trong khi tại nông thôn chỉ đạt 34,8%.
“Việt Nam đang có nguy cơ lỡ hẹn đối với mục tiêu năm 2025 đó là 95% đến 100% người dân thành thị và 93% đến 95% người dân nông thôn có nước sạch để dùng. Đặc biệt, tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận nước máy rất hạn chế, mới chỉ đạt xấp xỉ 35% số hộ vào năm 2019”, ông Nguyễn Quang Đồng cho hay.
Một trong những bất cập khiến nước máy chưa thể phủ ở các vùng nông thôn là quy định về giá nước. Hiện giá nước sạch được điều tiết bởi Nhà nước. Cụ thể, Bộ Tài chính quy định khung giá, phương thức tính giá, lợi nhuận định mức trên cả nước, UBND cấp tỉnh quyết định phê duyệt giá nước sạch tại địa phương mình nhưng không vượt quá khung giá do Bộ Tài chính quy định. Như vậy, giá nước ở các địa phương là khác nhau.
Nhưng phần lớn các doanh nghiệp trong ngành cho rằng, mức giá bán lẻ nước, đặc biệt là nước sinh hoạt thấp. Đó là chưa kể tại nhiều địa phương, mức giá này thường ít được điều chỉnh. Thậm chí, có những địa phương như Hà Nội không điều chỉnh giá nước trong gần 10 năm qua dẫn tới nghịch lý, nếu không điều chỉnh giá nước, doanh nghiệp không đủ chi phí, nhưng nếu giá quá cao thì người dân không tiếp cận được nguồn nước sạch
Trên thị trường, vai trò điều tiết, quản lý nhà nước cũng bị phân mảnh, việc quá nhiều đầu mối khiến các việc lập dự toán đầu tư mới của các doanh nghiệp trong ngành cũng gặp khó khăn. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho hay, một vấn đề tồn tại khác là việc sử dụng nước lãng phí hay nguy cơ ô nhiễm trầm trọng nguồn nước cũng chưa có chế tài quản ý. Cơ chế giá cũng đang có nhiều bất cập trong khi chưa xây dựng được lộ trình tăng giá nước. Khoa học công nghệ đầu tư của ngành nước cũng đang lạc hậu so với thế giới đặt ra những thách thức cho ngành này.
Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, dù chủ thể thực hiện cung cấp dịch vụ công là Nhà nước, tư nhân hay các thiết kế xã hội dân sự, thì trách nhiệm đảm bảo cung cấp thực hiện dịch vụ là của Nhà nước và 3 nguyên tắc phải tuân thủ để thiết kế thị trường này là: tính liên tục; quyền tiếp cận bình đẳng của mọi người dân và giá cả phù hợp. Điều này có nghĩa nếu chưa có nước sạch thì Nhà nước phải đảm bảo cho người dân có nước; với giá cả phải chăng và không để xảy ra tình trạng mất nước trong quá trình sử dụng dịch vụ. Soi chiếu với các nguyên tắc trên, cả về khả năng tiếp cận lẫn tính bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ nước sạch đều chưa đạt được mục tiêu mong muốn. Điều đó một phần do tiến trình xã hội hóa, xây dựng thị trường dịch vụ công nước sạch chưa thực sự hợp lý, hiệu quả.
Cần có luật về nước sạch
Ông Nguyễn Quang Đồng nhận định, tiến trình xã hội hóa dịch vụ công nước sạch đã không đi kèm với việc xây dựng một cấu trúc thị trường cung cấp dịch vụ nước sạch hợp lý, trong khi Nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thì đồng thời thị trường vẫn không thu hút hiệu quả đầu tư của tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân gặp rủi ro cao khi tham gia thị trường cả về giá và về khối lượng được mua dưới công suất. Doanh nghiệp nhà nước cũng khó khăn khi giá nước thấp, không đủ khả năng mở rộng diện tích cấp nước. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng” khiến thị trường khó phát triển, tạo ra rủi ro các nhóm trục lợi chính sách và cạnh tranh không lành mạnh.
Ông Nguyễn Quang Đồng cho rằng, những vấn đề lớn về chính sách cần giải quyết bao gồm: Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong cung cấp dịch vụ nước sạch như thế nào? Cấu trúc thị trường phân định tư nhân tham gia khâu nào? Cơ chế thu hút hợp tác công tư cho đầu tư từ tư nhân đối với mạng lưới cấp nước/thoát nước thải sinh hoạt là gì? Ngoài ra là các vấn đề về cơ chế giá và lợi nhuận cho ngành, vấn đề quy hoạch và điều phối liên vùng, cơ quan điều tiết thị trường.
Ông Nguyễn Quang Đồng khuyến nghị, cần có đánh giá toàn diện và thiết kế một hệ thống chính sách tổng thể để hoàn chỉnh thị trường kinh doanh nước sạch. Tiến trình này gắn liền với việc xây dựng Luật về cấp nước và xử lý nước mà Chính phủ đã yêu cầu Bộ Xây dựng đang triển khai.
Về vấn đề này, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cho rằng, thị trường dịch vụ nước sạch còn nhiều vấn đề chưa hoàn chỉnh, từ khâu tổ chức đến khâu điều tiết, vận hành thị trường. Do đó, ông Nguyễn Đình Cung đề xuất, nên có một luật riêng cho thị trường nước, điều chỉnh không chỉ vấn đề cấp nước mà cả vấn đề xử lý nước sinh hoạt. “Tương tự như ngành điện có Luật Điện lực, cần có một văn bản ở cấp độ luật để tạo lập khuôn khổ thống nhất, minh bạch cho thị trường nước sạch”, TS Nguyễn Đình Cung khuyến nghị.
Việc thu hút đầu tư tư nhân là cần thiết để mở rộng nguồn cung nước sạch, đảm bảo được quyền tiếp cận nước sạch cho người dân. Tuy nhiên, để tư nhân tham gia, các khuôn khổ, quy định cho thị trường cần được hoàn thiện thêm.
“Một văn bản như Luật là cần thiết và Chính phủ nên sớm đề xuất để Quốc hội xem xét. Cùng với đó, cơ chế, chính sách cần được quản lý đồng bộ, hiệu quả từ cấp Trung ương đến cấp địa phương và phải được giám sát thực thi hiệu quả. Ngoài ra, việc đảm bảo phòng chống ô nhiễm nguồn nước cũng đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn nguồn nước”, đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân khuyến nghị.
Sau hội thảo này, Viện IPS sẽ có thư kiến nghị đến Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan về các chính sách điều tiết, phát triển lành mạnh và bền vững thị trường nước sạch.