Nước sông Mê Kông dâng cao bất thường do các đập thủy điện thượng nguồn xả lưu lượng nước lớn từ đầu tháng 3 đến nay; việc này giúp giảm hạn, mặn; song về lâu dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đồng bằng.
Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (SIWRR), lượng trữ nước trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie (Campuchia) là 2 yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến diễn biến nguồn nước và tình hình xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Cập nhật dòng chảy trên dòng chính sông Mê Kông ngày 14-4 cho thấy mực nước tại trạm Kratie là 8,1 m, cao hơn trung bình nhiều năm 1,82 m. Dung tích Biển Hồ ngày 14-4 còn lại khoảng 2,21 tỉ m3, cao hơn trung bình nhiều năm 0,32 tỉ m3.
Tại Việt Nam, mực nước tại trạm Tân Châu (sông Tiền) đạt 1,16 m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,06 m và cao hơn những năm gần đây cùng thời điểm. Tại trạm Châu Đốc (sông Hậu), mực nước đạt 1,36 m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,12 m và cao hơn mấy năm gần đây cùng thời điểm. SIWRR dự báo dòng chảy bình quân về ĐBSCL từ tháng 4 đến cuối mùa khô ở mức cao hơn trung bình nhiều năm bởi ảnh hưởng của việc xả nước gia tăng từ thủy điện Trung Quốc và hạ lưu Mê Kông. Điều này có tác động tích cực khi giúp giảm xâm nhập mặn vào tháng 4 và 5.
Trước đó, trong mùa lũ từ tháng 8 đến 12-2021, các đập thủy điện ở Trung Quốc tích nước rất lớn. Đến mùa khô năm 2022, lượng nước này được các đập xả ra để phát điện, làm cho dòng chảy mùa khô năm nay cao hơn bình thường. “Việc tích nước, xả nước vì lợi ích của nhà đầu tư chứ không phải phục vụ cho người dân vùng hạ lưu. Việc xả nước này có tác động tích cực trong mùa khô là làm giảm hạn, mặn cho vùng ven biển ĐBSCL nhưng tác động tiêu cực thì rất nhiều, ảnh hưởng lâu dài và khó thấy hơn” – ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL, nhấn mạnh.
Ông Thiện nêu 4 tác động tiêu cực từ việc xả nước trong mùa khô của các đập trên thượng nguồn. Thứ nhất, việc tích nước trong mùa lũ làm cho dòng chảy lũ yếu đi, không còn sức mạnh tải bùn cát, phù sa về ĐBSCL.
Thiếu phù sa, thiếu cát sẽ gây sạt lở bờ sông, bờ biển ở ĐBSCL. Cát sẽ ngày càng khan hiếm và giá tăng cao, không đáp ứng được nhu cầu xây dựng; trong khi sạt lở làm mất nhà cửa, đe dọa tính mạng người dân. Về lâu dài, sạt lở đe dọa chính sự tồn tại của ĐBSCL. Thứ hai, việc tích nước vào mùa lũ của các đập thủy điện làm biến mất mùa lũ, từ đó đất đai bạc màu, mất nguồn thủy sản tự nhiên vào mùa nước nổi.
Thứ ba, thủy điện xả nước từng đợt trong mùa khô khiến mực nước biến động bất thường, tạo ra những tín hiệu giả của dòng sông, làm cho hệ sinh thái rối loạn. Chẳng hạn, giữa mùa khô nước dâng lên bất thường sẽ khiến cá, tôm tưởng mùa nước đã tới nên bơi ngược dòng để sinh sản; khi mùa nước thật đến thì chúng không sinh sản được nữa.
Thứ tư, việc xả nước giúp đẩy hạn, mặn cho ĐBSCL nhưng bất thường, không ổn định. “Nếu chỉ thấy tác dụng làm giảm hạn, mặn trong mùa khô năm nay thì người ta dễ lầm tưởng thủy điện có tác dụng tốt cho đồng bằng, trong khi thực tế về lâu dài tác hại rất nghiêm trọng, nên cần nhìn bức tranh cho đầy đủ”.
Theo PGS-TS Lê Anh Tuấn – cố vấn khoa học tại Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, giảng viên Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên Trường ĐH Cần Thơ – việc nước sông Mê Kông dâng cao bất thường trong mùa khô do đập thủy điện xả nước sẽ gây khó cho người dân vùng ven biển. Trong mùa khô, nông dân ĐBSCL cần nước mặn để nuôi tôm, nước ngọt về sẽ gây nhiều bất lợi. Ngoài ra, việc xả nước còn làm rối loạn hệ sinh thái, quy luật mùa khô – mùa mưa đang bị đảo lộn.