Các nước giàu phải chấm dứt sản xuất dầu và khí đốt vào năm 2034 để có một quá trình chuyển dịch công bằng vì mục tiêu giữ mức tăng nhiệt ở ngưỡng 1,5°C; Các nước nghèo phụ thuộc vào nguồn thu từ nhiên liệu hóa thạch cần thêm thời gian để chấm dứt sản xuất và cần sự hỗ trợ tài chính để đạt được mục tiêu này.
Theo một báo cáo mới về khoa học khí hậu thuộc Đại học Manchester công bố hôm nay (22/3), các quốc gia giàu có phải chấm dứt sản xuất dầu và khí đốt vào năm 2034 để thế giới có thể đi đúng lộ trình vì mục tiêu giữ mức tăng nhiệt ở ngưỡng 1,5°C, và cho các quốc gia nghèo có nguồn thu nhập từ sản xuất nhiên liệu hóa thạch thêm thời gian để thay thế nguồn thu này.
Báo cáo đề xuất thời điểm loại bỏ sản xuất dầu và khí đốt của các quốc gia nhằm phù hợp với các mục tiêu của Thỏa thuận Paris, cũng như cam kết về một quá trình chuyển dịch công bằng. Tính toán dựa trên mức độ giàu có, sự phát triển và sự phụ thuộc kinh tế vào nhiên liệu hóa thạch khác nhau của các quốc gia, báo cáo này cho biết các quốc gia nghèo nhất cần thời gian đến năm 2050 để chấm dứt sản xuất nhưng các nước này cũng sẽ cần nguồn hỗ trợ tài chính đáng kể để chuyển đổi nền kinh tế của họ.
Báo cáo của Giáo sư Kevin Anderson, nhà nghiên cứu hàng đầu tại Trung tâm Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu Tyndall và Tiến sĩ Dan Calverley, khuyến nghị rằng tất cả các quốc gia đều cần cắt giảm đáng kể sản lượng dầu khí trong thập kỷ này. Những quốc gia giàu có nhất, sản xuất hơn một phần ba lượng dầu và khí đốt của thế giới, phải cắt giảm sản lượng 74% vào năm 2030; những quốc gia nghèo nhất, chỉ cung cấp một phần chín nhu cầu toàn cầu, cần cắt giảm 14%.
Kevin Anderson, Giáo sư về Năng lượng và Biến đổi Khí hậu tại Đại học Manchester, cho biết: “Ứng phó với tình trạng khẩn cấp về khí hậu đang diễn ra đòi hỏi một sự chuyển dịch nhanh chóng, loại bỏ nền kinh tế phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, nhưng điều này phải được thực hiện một cách công bằng. Có sự khác biệt rất lớn về khả năng chấm dứt sản xuất dầu và khí đốt của các quốc gia, trong khi vẫn phải duy trì nền kinh tế năng động đồng thời mang lại một quá trình chuyển dịch công bằng cho công dân của mình. Chúng tôi đã phát triển một lịch trình loại bỏ dần việc sản xuất dầu và khí đốt – với sự hỗ trợ đầy đủ cho các nước đang phát triển – đáp ứng các cam kết về khí hậu nhiều thách thức của chúng ta và thực hiện điều đó một cách công bằng.
Báo cáo được ủy quyền bởi Viện Phát triển Bền vững Quốc tế, lưu ý rằng, một số quốc gia nghèo hơn phụ thuộc vào nguồn thu từ nhiên liệu hóa thạch sẽ có nguy cơ gặp bất ổn về chính trị nếu loại bỏ thu nhập này quá nhanh. Các quốc gia như Nam Sudan, Congo-Brazzaville và Gabon, mặc dù là các nước sản xuất nhỏ, nhưng doanh thu từ các lĩnh vực khác ngoài sản xuất dầu và khí đốt là rất ít.
Ngược lại, báo cáo nhận định: “Các quốc gia giàu có là nhà sản xuất lớn, thường vẫn giàu có ngay cả khi nguồn thu từ dầu khí không còn.” Doanh thu từ dầu khí đóng góp 8% vào GDP của Hoa Kỳ nhưng nếu không có nó, GDP bình quân đầu người của quốc gia này sẽ vẫn ở mức khoảng 60.000 USD – mức cao thứ hai trên toàn cầu.
Một báo cáo đáng chú ý của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) vào tháng trước đã cảnh báo rằng việc không hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C sẽ gây ra những tác động tàn phá trên toàn thế giới. Tổng thư ký Liên hợp q uốc Antόnio Guterres đã mô tả nó là “một tập bản đồ về những đau khổ của con người và là một bản cáo trạng đáng nguyền rủa về sự thất bại tronghoạt động lãnh đạo vì mục tiêu khí hậu”. Với mức phát thải hiện tại, mức tăng nhiệt của thế giới sẽ vượt quá ngưỡng 1,5°C sớm nhất vào năm 2030-2035.
Khi các nước ký Thỏa thuận Paris của Liên hợp quốc, họ đồng ý rằng các quốc gia giàu có cần thực hiện các bước đi lớn hơn và nhanh hơn để cắt giảm lượng khí thải trong nền kinh tế của họ, đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính để giúp các nước nghèo hơn dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Nguyên tắc này đã được áp dụng cho sản xuất điện than, với việc Liên hợp quốc kêu gọi các nước giàu có trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ngừng sử dụng than vào năm 2030 và phần còn lại của thế giới sẽ ngừng sử dụng vào năm 2040.
Báo cáo xác định mức sản lượng trong tương lai phù hợp với các mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris và điều này có ý nghĩa gì đối với 88 quốc gia chịu trách nhiệm về 99,97% nguồn cung cấp dầu và khí đốt. Báo cáo đặt ra các lộ trình loại bỏ dầu khí khả thi cho năm nhóm quốc gia khác nhau dựa trên năng lực của họ nhằm thực hiện một quá trình chuyển đổi, loại bỏ nhanh chóng và đơn giản nhiên liệu hóa thạch.
Tiến sĩ Dan Calverley cho biết: “Thời gian để chúng ta giới hạn mức nóng lên toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C còn lại rất ít. Mặc dù lộ trình này cho các quốc gia nghèo hơn nhiều thời gian hơn để loại bỏ dần sản lượng dầu và khí đốt, nhưng họ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề do mất thu nhập. Một quá trình chuyển dịch công bằng sẽ đòi hỏi mức hỗ trợ tài chính đáng kể cho các nước sản xuất dầu khí nghèo hơn, để họ có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của mình trong khi chuyển sang các nền kinh tế phát thải ít các-bon, và đối phó với các tác động ngày càng tăng của khí hậu”.
Báo cáo cũng đưa ra một kịch bản tham vọng hơn với 67% khả năng đáp ứng mục tiêu giữ mức nhiệt ở 1,5°C. Kịch bản này đòi hỏi các nước giàu nhất phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2031 và vào năm 2042 đối với các nước nghèo nhất.
Trong một kịch bản ít tham vọng hơn, với 50% khả năng đạt mức tăng nhiệt độ 1,7°C – phản ánh đúng mục tiêu “mức tăng nhiệt dưới 2 độ” – các nước giàu nhất sẽ phải giảm một nửa sản lượng dầu và khí đốt vào năm 2035 và chấm dứt sản xuất vào năm 2045. Các nước nghèo nhất sẽ có thời gian cho đến năm 2062 để loại bỏ tất cả các hoạt động sản xuất, nhưng vẫn sẽ không có chỗ cho việc sản xuất thêm dầu và khí đốt.
Bình luận về báo cáo, Connie Hedegaard, cựu Cao ủy châu Âu về Hành động Khí hậu và Bộ trưởng Khí hậu và Năng lượng Đan Mạch, cho biết: “Trong khi phần lớn mọi người đã hiểu rằng cần phải loại bỏ khẩn cấp việc sản xuất than trên toàn cầu, báo cáo này đã minh họa rất rõ ràng nguyên nhân chúng ta cần phải loại bỏ sản xuất dầu và khí đốt. Và nó cho thấy rằng tốc độ và thời gian chấm dứt sản xuất nhiên liệu hóa thạch cần phải diễn ra nhanh chóng. Tình trạng cấp bách này đã được chứng minh một cách đầy bi thảm bởi các sự kiện địa chính trị gần đây, những sự kiện giúp làm sáng tỏ quan điểm rằng tại sao thế giới có nhiều lý do để thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, đồng thời đẩy nhanh quá trình chuyển dịch sang năng lượng sạch”.
Saber H. Chowdhury, Thành viên Quốc hội Bangladesh và Chủ tịch danh dự của Liên minh Liên Nghị viện, cho biết: “Khoa học đã kết luận – nhiên liệu hóa thạch cần phải được loại bỏ ngay bây giờ và một thế giới tương lai không sử dụng nhiên liệu hóa thạch sẽ sớm được hiện thực hóa. Các quốc gia giàu có phải chuyển đổi nhanh nhất và có nghĩa vụ đạo đức để làm điều này. Đồng thời, họ có nghĩa vụ hỗ trợ các quốc gia ở phía nam bán cầu về tài chính và công nghệ để hỗ trợ họ chuyển dịch sang năng lượng tái tạo nhằm đảm bảo nhu cầu năng lượng của họ.”
Phân tích đánh giá năng lực của các quốc gia trong việc tài trợ cho quá trình chuyển đổi công bằng và loại bỏ nền kinh tế phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch dựa trên “GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ” –tức là GDP sau khi đã trừ đi doanh thu từ sản xuất dầu và khí đốt. Cách tiếp cận này thừa nhận rằng doanh thu từ dầu khí đóng vai trò ít quan trọng hơn nhiều đối với nền kinh tế của một số quốc gia – bao gồm một số nước sản xuất lớn – so với những quốc gia khác.
Báo cáo phân phối ngân sách carbon toàn cầu còn lại giữa các quốc gia sản xuất theo mức sản xuất hiện tại và theo mức độ chênh lệch hơn hoặc dưới mức “khả năng tài trợ cho quá trình chuyển đổi chính đáng” trung bình của các quốc gia. Các quốc gia vừa nghèo vừa phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ dầu khí sẽ có thời gian loại bỏ sản xuất lâu hơn so với các quốc gia giàu có hơn với nền kinh tế đa dạng hơn.
Các lộ trình đề xuất cho việc cắt giảm sản lượng dầu và khí đốt phụ thuộc vào việc loại bỏ than đá trên toàn cầu một cách nhanh chóng. Báo cáo lưu ý rằng nhiều quốc gia nghèo hơn dựa vào sản xuất than trong nước cho nhu cầu năng lượng của họ: gần 3/4 lượng than trên thế giới được sản xuất và tiêu thụ ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu 1,5°C mà không cần cắt giảm chặt chẽ hơn nữa đối với dầu và khí đốt, sản lượng than phải đạt đỉnh ở các nước đang phát triển vào năm 2022 và chấm dứt vào năm 2040, trong khi các nước phát triển phải loại bỏ toàn bộ sản lượng than vào năm 2030.
Để có 50% cơ hội hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu lên mức 1,5oC, báo cáo chỉ ra rằng:
• 19 quốc gia có Năng lực tốt nhất, với GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ (GDP/đầu người) trên 50.000 USD, phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2034, với mức cắt giảm 74% vào năm 2030. Nhóm này sản xuất 35% lượng dầu và khí đốt toàn cầu và bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Na Uy, Canada, Úc và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. • 14 quốc gia có Năng lực tốt, với GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ là gần 28.000 USD, phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2039, với mức cắt giảm 43% vào năm 2030. Nhóm này sản xuất 30% lượng dầu và khí đốt toàn cầu, bao gồm Ả Rập Xê Út, Kuwait và Kazakhstan. • 11 quốc gia có Năng lực trung bình, với GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ 17.000 USD, phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2043, với mức cắt giảm 28% vào năm 2030. Các quốc gia này sản xuất 11% lượng dầu và khí đốt toàn cầu, bao gồm Trung Quốc, Brazil và Mexico. • 19 quốc gia có Năng lực thấp với GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ là 10.000 USD, phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2045, với mức cắt giảm 18% vào năm 2030. Các quốc gia này sản xuất 13% lượng dầu và khí đốt toàn cầu, bao gồm Indonesia, Iran và Ai Cập. • 25 quốc gia có Năng lực thấp nhất, với GDP bình quân đầu người không tính từ nguồn dầu mỏ là 3.600 đô la, phải chấm dứt sản xuất dầu khí vào năm 2050 với mức cắt giảm 14% vào năm 2030. Các quốc gia này sản xuất 11% lượng dầu và khí đốt toàn cầu, bao gồm Iraq, Libya, Angola và Nam Sudan. |