“Tài nguyên bản địa” là từ khóa quan trọng đối với các quốc gia, mỗi nền kinh tế trong tương lai gần, sẽ trở thành vũ khí giúp cạnh tranh lành mạnh, tạo ưu thế rõ rệt khi nhắc đến “lợi thế giữa các quốc gia”. Việc vận dụng tài nguyên bản địa trong bối cảnh hiện nay cần ứng dụng công nghệ số, mới có thể phát huy được những tính đặc thù, tinh túy nhất của tài nguyên bản địa, tạo ra sự khác biệt và quý hiếm.
Tri thức bản địa chứa đựng trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
Theo chuyên gia chuyển đổi số Nguyễn Huy Du thuộc Viện khoa học giáo dục và kinh tế Đông Nam Á (ISA), chuyển đổi số là quá trình giúp cô đặc thông tin và giúp vươn xa, mở rộng độ tiếp cận tới mọi nơi mà internet có mặt. Kết nối dữ liệu để phục vụ hoạt động chuyển đổi số là giúp tiết kiệm thời gian và chi phí của các hoạt động khảo sát, tìm kiếm lời giải mới cho các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Đặc biệt, sự kết nối dữ liệu với chuyển đổi số và tài nguyên bản địa cũng sẽ tạo ra và lưu giữ được lượng “tri thức bản địa” sẽ đóng góp được vào việc phát triển tài nguyên số được khai thác trên môi trường số của mỗi quốc gia.
Ông Nguyễn Huy Du cho rằng, trong bối cảnh của một nền khoa học liên – đa ngành, sự kết hợp giữa thực tiễn với các ngành khoa học chuyên sâu là cần thiết. Ở những quốc gia đang phát triển, hệ thống tri thức bản địa luôn tồn tại song song với các hệ thống kiến thức chính thống.
Tri thức bản địa là tri thức được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử của con người với môi trường và xã hội; được lưu truyền từ đời này qua đời khác qua trí nhớ, qua thực tiễn sản xuất và thực hành xã hội. Tri thức bản địa chứa đựng trong các lĩnh vực của cuộc sống như sản xuất lương thực, thực phẩm, chăn nuôi; cất trữ và chế biến thức ăn; thu hái, sử dụng cây thuốc và cách chữa bệnh; truyền thụ kiến thức qua các thế hệ trong giáo dục; bảo vệ, quản lý và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên; tổ chức quản lý cộng đồng, giá trị xã hội, các luật lệ truyền thống trong làng bản…
Dẫn chứng về tri thức bản địa chứa đựng trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ông Nguyễn Huy Du cho biết: Với một bài thuốc dân gian, nguyên liệu chế biến chỉ có tại một vùng miền, địa phương thì tri thức bản địa không chỉ là công thức điều chế của người dân, mà kinh nghiệm nhận diện các loại nguyên liệu tốt đáp ứng cho bài thuốc đó cũng được coi là tri thức bản địa sau khi được truyền lại bằng các hình thức văn bản hoặc tác phẩm dạng truyền miệng dân gian (hò, vè, thơ…).
Khi đó, ngoài việc quản lý bảo vệ công thức cho bài thuốc trên, bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên là nguyên liệu tại nơi đó, cũng cần bảo vệ, bảo tồn các tác phẩm, ấn phẩm giúp tìm kiếm, nhận diện, cách thu hái nguyên liệu chính xác và hiệu quả. Một phần bảo tồn, một phần là quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên hợp lý, bền vững.
Tương tự, các sản vật về văn hóa bản địa như tranh, tượng, khúc ca, điệu múa… thuộc nhóm tri thức bản địa đều cần được quản lý, khai thác, bảo vệ giúp bảo tồn và phát huy lợi thế tính đặc hữu.
Kết nối tài nguyên bản địa và chuyển đổi số
Tri thức bản địa có tầm quan trọng lớn trong việc thực hiện các dự án phát triển mang tính bền vững, cho nên không những chỉ các nước đang phát triển mà các nước có nền khoa học phát triển cao cũng rất chú ý sưu tầm, phân tích và ứng dụng tri thức bản địa, nhằm tìm kiếm những giải pháp quản lý bền vững cổ truyền cũng như giá trị của các tài nguyên mà khoa học hiện đại chưa biết tới.
Khi tài nguyên bản địa được tổ chức chuyển đổi số sẽ hình thành nên Tài nguyên số, ngược với các nguồn tài nguyên truyền thống thì Tài nguyên số càng khai thác càng gia tăng giá trị, càng được bồi đắp thêm. Do vậy, Tài nguyên số là một trong những mục tiêu lớn của nhiều quốc gia với hiệu quả kép mang lại “tạo ra kinh tế” và “tạo thêm giá trị”.
Việc áp dụng tri thức bản địa trên thế giới đã mang lại nhiều thành công lớn, đưa tri thức bản địa trở thành nguồn tài nguyên bản địa thông qua cách tiếp cận khoa học và ứng dụng công nghệ số sẽ giúp hình thành nguồn Tài nguyên số của quốc gia. Giá trị thương mại của tài nguyên bản địa thông qua ví dụ về tri thức bản địa như: Khám phá các công trình kim tự tháp ở Ai Cập; Khai quật mộ cổ các vị hoàng đế ở Trung Quốc; Thăm dò các vùng biển mới ở châu Đại Dương; Chinh phục các đỉnh núi nóc nhà của thế giới tại nhiều quốc gia… trên thực tế còn có dư địa rất lớn đặc biệt là trong kỷ nguyên số.
Như vậy, tài nguyên bản địa không những có giá trị phục vụ giải pháp phát triển địa phương, mà còn là kho báu về thông tin, về văn hóa là nguồn tài nguyên quý cần được bảo vệ, gìn giữ và sử dụng thật hữu ích.
Kết nối dữ liệu và phát huy chuỗi giá trị bản địa sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề địa phương của quốc gia và gắn kết hoạt động chuyển đổi số của quốc gia sẽ sớm hình thành nên những nguồn tài nguyên số quốc gia lớn hơn và có giá trị hơn.