Trong du lịch sinh thái, du lịch sinh thái nông nghiệp là một trong những nhóm sản phẩm chủ đạo.
Khung cảnh nông thôn, hoạt động canh tác nông nghiệp, tri thức và văn hóa truyền thống các làng quê ở nông thôn, sản vật tươi ngon và khác lạ… là những yếu tố hấp dẫn khách du lịch. Và một trong những vấn đề rất cần được quan tâm hiện nay là thúc đẩy du lịch sinh thái nông nghiệp trong bối cảnh ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.
Phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp tại Việt Nam
Tại Hội nghị COP 26, “Tuyên bố Glasgow về hành động khí hậu trong ngành Du lịch” đã được đưa ra với hơn 300 bên liên quan đến du lịch đăng ký. Tuyên bố sẽ chính thức được đưa ra với mục tiêu nâng cao tham vọng về khí hậu và tăng cường các hành động mạnh mẽ nhằm hỗ trợ cam kết về cắt giảm một nửa lượng khí thải vào năm 2030 và đạt Net Zero vào năm 2050 (UNWTO). Tuyên bố cho thấy việc phát triển du lịch bền vững theo hướng tăng trưởng xanh, phát thải ít carbon, đáp ứng những yêu cầu cập nhật của bối cảnh và xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới. Đây là một chiến lược chuyển đổi nhằm đáp ứng với những thách thức về tăng trưởng kinh tế, biến đổi khí hậu và đói nghèo trong tương lai, cũng như những thách thức về khủng hoảng lương thực, nước và năng lượng phù hợp với các Mục tiêu về phát triển bền vững (SDG), động lực hướng tới tăng trưởng kinh tế, phát triển bao trùm và bền vững môi trường. Trong đó, du lịch sinh thái nông nghiệp cũng là một dạng của du lịch bền vững, được dựa trên việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo thúc đẩy một xã hội hòa nhập, công bằng, hướng đến bảo tồn đa dạng sinh học và giữ gìn môi trường sinh thái và quảng bá du lịch có ý thức về khí hậu.
Tại Việt Nam, theo đặc trưng của hệ sinh thái nông nghiệp tại các vùng sinh thái, vùng dân cư, nhiều sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp đã được khai thác tốt, phát huy giá trị và trở thành nét đặc trưng cho sản phẩm du lịch của các địa phương như: du lịch sinh thái miệt vườn của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, du lịch sinh thái biển tại các khu nuôi hải sản tại Nha Trang (Khánh Hòa), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), làng trồng rau Trà Quế (Quảng Nam), làng trồng hoa và cây ăn trái công nghệ cao ven Đà Lạt (Lâm Đồng), làng vải Thanh Hà (Hải Dương), làng trồng nho Ninh Thuận…
Trong những thập niên gần đây, trào lưu xây dựng vùng chuyên canh, trang trại chuyên canh nông nghiệp phát triển đã tạo nên nhiều sản phẩm mới thu hút khách du lịch đến với du lịch sinh thái nông nghiệp như các trang trại trồng hoa tại Mộc Châu (Sơn La), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng)…, đồng thời nhiều địa phương đã chú trọng xây dựng các sản phẩm du lịch nông nghiệp, tạo dựng lễ hội để quảng bá, thu hút khách du lịch như Lễ hội hoa tam giác mạch (Hà Giang), Lễ hội Na (Lạng Sơn), Lễ hội mận Mộc Châu (Sơn La), Lễ hội cây trái Nam Bộ (các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long)…
Thông qua các sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp, nhiều địa phương đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm, gia tăng thu nhập, đồng thời thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, điều kiện sinh hoạt và chất lượng cuộc sống của người dân. Thông qua hoạt động du lịch sinh thái nông nghiệp, nhiều sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm làng nghề tại nhiều vùng, miền đã tăng thêm giá trị thông qua giao dịch và tiêu thụ trực tiếp của khách du lịch không cần qua phân phối, giá trị gia tăng cao… đã tác động tích cực đến cuộc sống, kinh tế – xã hội khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, dưới góc độ khác, nhiều sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp hiện nay chưa đáp ứng được kỳ vọng. Nhiều “khu du lịch sinh thái” tại vùng nông thôn thực chất chỉ là các điểm nghỉ ngơi, giải trí… trong khung cảnh nông thôn, dịch vụ nghèo nàn, chất lượng thấp, đặc biệt là không hề có hoạt động nào để nâng cao nhận thức về môi trường và có đóng góp cho cộng đồng dân cư địa phương theo các nguyên tắc phát triển của du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý cho sản vật địa phương, công tác quản lý canh tác và bảo vệ thực vật, bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý trật tự, an toàn xã hội ở nhiều nơi chưa được chú trọng dẫn đến làm mất lòng tin của khách du lịch và sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp cũng như những cố gắng của chính quyền, nhân dân địa phương không phát huy được hiệu quả…
Việt Nam là quốc gia chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu
Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu ra đời năm 1992 là một trong những điều ước quốc tế quan trọng để các nước cùng chung sức đối phó với thách thức này. Việt Nam đã tham gia công ước ngày 16/11/1994 và ký tham gia Nghị định thư Kyoto (kèm theo Công ước khung về biến đổi khí hậu) năm 1998.
Biểu hiện rõ nhất của biến đổi khí hậu là nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng 1,5 – 4,50C trong vòng 100 năm tới. Trong thế kỷ trước, mực nước biển trung bình trên toàn cầu đã dâng lên khoảng 15cm; dự đoán đến năm 2030, mực nước biển sẽ dâng thêm 18cm nữa. Nếu tiếp tục xu thế phát thải khí nhà kính như hiện nay thì mức dâng lên của mực nước biển vào năm 2100 có thể tới 65cm so với hiện nay. Mực nước biển dâng lên có thể làm nhiễm mặn các nguồn cung cấp nước ngọt cho các hoạt động sản xuất và đời sống, đe dọa các quốc gia và vùng đất thấp. Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh nhất từ nước biển dâng.
Thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu đã gây ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển du lịch, tác động xấu đến tài nguyên du lịch. Hiện tượng Elnino ngày càng có tác động mạnh, nhiệt độ gia tăng và nắng gắt, khô hạn đã gây ảnh hưởng tới mực nước của các con sông, lòng hồ, khe suối,…vốn được dùng để khai thác du lịch đường sông hoặc cảnh quan du lịch. Mùa bão kéo dài và dịch lùi dần về các tháng cuối năm, quỹ đạo của các cơn bão cũng có xu hướng chuyển dần về các vĩ độ phía Nam và mang nhiều yếu tố bất thường. Các địa phương duyên hải miền Trung chịu ảnh hưởng khoảng 70% tổng số các cơn bão đổ bộ vào nước ta, trong đó, 60 – 65% số cơn bão có sức mạnh từ cấp 8 – cấp 12 kèm với triều cường nên hậu quả gây ra rất nghiêm trọng. Mưa to với mật độ dày gây ra ngập lụt các đoạn đường đến các địa điểm du lịch, làm mất đi cảnh quan sinh thái. Các vùng có lượng mưa mùa khô giảm, đặc biệt là Tây Nguyên, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ gây ra hạn hán nặng nề vào mùa khô. Hiện tượng xâm thực đường bờ biển diễn ra khá nhanh và khắc nghiệt, điển hình là tại khu vực reort Ana Mandara (Thừa Thiên Huế) và Cửa Đại, Hội An (Quảng Nam). Tại hai đảo có giá trị cao trong khai thác phát triển du lịch như Phú Quốc và Côn Đảo, lượng mưa giảm dẫn đến lượng nước ngọt giảm, các hồ chứa nước khô cạn sẽ ảnh hưởng nhiều đến đời sống và hoạt động du lịch trên đảo.
Theo kịch bản biến đổi khí hậu, dự tính khoảng 20 – 30% các loài thực vật và động vật được đánh giá là ở trong tình trạng nguy cơ bị tiêu diệt tăng lên. Theo các chuyên gia khí tượng thủy văn, trong 50 năm trở lại đây, tần suất xảy ra các đợt nắng nóng đã tăng từ 2 – 4 lần. Nhiều khả năng trong 40 năm tới, số lượng các đợt nắng nóng sẽ tăng 100 lần. Nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 1,5 – 2,50C, kết hợp với hàm lượng khí CO2 trong khí quyển tăng, sẽ dẫn đến những thay đổi cơ bản trong cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái, sự tương tác sinh thái của các loài và sự phân bố địa lý của chúng, làm thay đổi cơ cấu các loài thực vật và động vật ở một số vùng, một số loài có nguồn gốc ôn đới và á nhiệt đới bị mất đi dẫn đến suy giảm tính đa dạng sinh học.
Hệ sinh thái biển và ven biển bị thay đổi do mực nước biển dâng, nhiệt độ và độ mặn thay đổi cùng với những thay đổi về dòng chảy, sóng, biên độ thủy triều, xâm nhập mặn và xói lở bờ biển. Các rạn san hô rất dễ bị tổn thương do nhiệt độ nước biển tăng lên, san hô bị biến màu thành trắng và chết hàng loạt như ở Phú Quốc (56,6%). Vùng đất ướt ven biển bao gồm cả đầm lầy và rừng ngập mặn sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực do mực nước biển dâng. Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh là 2 trong số 10 thành phố bị ngập lụt nhất thế giới dưới tác động của nước biển dâng. Tại Hải Phòng, trong 1 thập kỷ qua, mực nước biển đã tăng cao hơn 20 cm. Nước biển dâng đã làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn/các hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước, các sinh cảnh tự nhiên. Vùng cửa sông, ven biển đồng bằng Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Hà Tiên với chiều dài trên 700km có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mức nước biển dâng lên cao, khoảng một nửa trong số 68 khu đất ngập nước có tầm quan trọng mức quốc gia, sẽ bị ảnh hưởng nặng; nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa, giết chết nhiều loài động và thực vật nước ngọt của hệ sinh thái quan trong này và ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt cho sinh hoạt nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng. Biến đổi khí hậu đã góp phần làm cho động Phong Nha trong Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Bình) bị ngập lụt vào mùa mưa thường niên. Nước lũ đã va đập gây xói lở lòng hang động và đục khoét lòng sông dẫn vào hang.
Dưới góc độ nhân văn, biến đổi khí hậu mà một trong những biểu hiện nghiêm trọng là nước biển dâng tạo nên xâm nhập mặn tại những vùng thấp, ven biển. Do vậy, nền văn minh lúa nước sẽ bị ảnh hưởng, mai một. Mặt khác, nước biển dâng sẽ làm mất đi nơi sinh sống của các cộng đồng lâu đời tại vùng đồng bằng sông Cửu Long với các nét văn hóa, truyền thống đã và đang được khai thác phát triển du lịch.
Biến đổi khí hậu làm gia tăng thiên tai (bão lụt, lũ quét, hạn hán, sạt lở) xảy ra với cường độ và tần suất cao, làm mất đi các hệ sinh thái nông nghiệp các vườn hoa, cây cảnh…, tác động xấu đến cảnh quan. Quá trình ứng phó với biến đổi khí hậu đã làm ảnh hưởng đến tập quán canh tác cũng như sản xuất nông nghiệp của đồng bào các dân tộc miền núi, đặc biệt là vùng trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên…
Phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp trong bối cảnh biến đổi khí hậu
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Năm 2018, Việt Nam đón được 15,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 20% so với năm 2017 và phục vụ hơn 80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu du lịch khoảng 620 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng trung bình khách quốc tế đạt xấp xỉ 13,6%/năm, khách nội địa khoảng 16,3%/năm trong giai đoạn 2011 – 2017. Năm 2019 tiếp tục là một năm thắng lợi của Du lịch Việt Nam. Ngành Du lịch đón trên 18 triệu lượt khách quốc tế, tăng 16,2%; phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tăng 6%; tổng thu du lịch đạt 755 nghìn tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2018. Những kết quả đó thực sự ấn tượng khi năm 2019 tăng trưởng khách quốc tế đến Việt Nam cao hơn hẳn mức trung bình toàn cầu (3,8%) và khu vực châu Á và Thái Bình Dương (4,6%).Việt Nam được Tổ chức Du lịch Thế giới xếp thứ 6 trong 10 điểm du lịch có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới và đứng đầu châu Á về tốc độ này. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam đã được cải thiện đáng kể theo Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, xếp hạng 63/140 nền kinh tế, so với xếp hạng 67/136 năm 2017. Việt Nam vượt qua In-đô-nê-xi-a để xếp thứ 4 trong khu vực về lượng khách quốc tế đến. Mặc dù sự phát triển du lịch Việt Nam những năm qua đã đóng góp quan trọng cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc nhưng sự tăng trưởng nhanh của du lịch cũng kéo theo những hệ lụy, tiềm ẩn những nguy cơ dẫn đến sự phát triển kém bền vững. Chính vì thế, ngành du lịch Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể để thúc đẩy mạnh mẽ phát triển du lịch tăng trưởng xanh nói chung và du luchj sinh thái nông nghiệp nói riêng trên cơ sở tận dụng những lợi thế sẵn có. Trên cơ sở tiềm năng và thực tiễn phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp, kịch bản biến đổi khí hậu và giải pháp ứng phó của ngành Du lịch, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển loại hình du lịch này như sau:
Lồng ghép nội dung du lịch sinh thái nông nghiệp trong quy hoạch quốc gia, vùng, địa phương
Để bảo đảm khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế một cách đồng bộ và phát triển bền vững, du lịch sinh thái nông nghiệp cần được xác định rõ trong các quy hoạch, từ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội cho đến quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch du lịch, quy hoạch phát triển làng nghề, sản phẩm đặc trưng và các quy hoạch chuyên ngành khác. Với định hướng phát triển đồng bộ các lĩnh vực, gắn với kịch bản ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ đảm bảo quá trình phát triển phát huy được hiệu quả đồng bộ cả về du lịch, sản phẩm nông nghiệp với phương thức canh tác phù hợp, sản phầm làng nghề… Căn cứ kế hoạch tổng thể, chính quyền và cơ quan quản lý các cấp sẽ có phương án chỉ đạo cụ thể đảm bảo tính đồng bộ, phát huy hiệu quả các nguồn lực và khai thác tốt lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Xây dựng kế hoạch phát triển sản phẩm đặc thù gắn với sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, phát huy giá trị và tạo khác biệt, tránh trùng lắp
Giá trị hàng hóa của các sản phẩm du lịch cũng như sản phẩm nông nghiệp chỉ phát huy tốt, có giá trị gia tăng cao khi thể hiện được tính đặc thù, sự khác biệt. Vì vậy, căn cứ vào kế hoạch tổng thể theo định hướng dài hạn, cần có kế hoạch rõ ràng trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp đặc thù trên cơ sở kết hợp với các sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, ví dụ như các loại nông sản đã có thương hiệu trên thị trường, có chỉ dẫn địa lý rõ ràng. Công tác chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cần tiến hành thường xuyên, có sự phối hợp đồng bộ của các bên liên quan để bảo đảm chất lượng, thương hiệu lâu dài. Mặt khác, kế hoạch tổng thể dài hạn được quản lý thực hiện tốt sẽ kịp thời ứng phó với các xu thế biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại.
Kế hoạch, chương trình phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp cần gắn bó mật thiết với dự báo tác động của biến đổi khí hậu
Hoạt động du lịch nhìn chung đều bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu như mưa, bão, lũ… do liên quan đến các hoạt động ngoài trời, chuyến đi của du khách. Đặc biệt, đối với du lịch sinh thái nông nghiệp thì các sản phẩm phần lớn được xây dựng trên cơ sở kết quả hoạt động canh tác nông nghiệp, vì vậy càng chịu tác động mạnh hơn. Vì vậy, trong việc phát triển loại hình sản phẩm du lịch này, công tác dự báo tác động của biến đổi khí hậu rất quan trọng. Nâng cao ứng dụng dự báo thời tiết (cả dài hạn và ngắn hạn) để điều chỉnh kịp thời hoạt động quảng bá, chương trình du lịch cụ thể là công việc rất cần được quan tâm và áp dụng đối với cả những người quản lý, người dân địa cung cấp sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp lữ hành.
Nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm
Kinh nghiệm thực tiễn phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp cho thấy rằng thông qua du lịch, giá trị hàng hóa của nông sản gắn với cảnh quan nông thôn, truyền thống văn hóa bản địa của cộng đồng địa phương được gia tăng nhiều lần so với giá trị hàng hóa thuần túy của nông sản, sản vật địa phương. Điều này chỉ phát huy hiệu quả khi các sản phẩm đó mang tính đặc trưng cao, chất lượng đảm bảo, đồng thời được giới thiệu thông tin chi tiết, đầy đủ đến với khách du lịch qua các hình thức truyền thông. Vì vậy, việc nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng cho các sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với giá trị sản phẩm với các dịch vụ đi kèm, đáp ứng nhu cầu trải nghiệm, khám phá của khách du lịch.
Đẩy mạnh truyền thông quảng bá, phân phối sản phẩm
Thông tin về các nông sản, sản phẩm thủ công gắn với du lịch sinh thái nông nghiệp thường ít được phổ biến. Trong bối cảnh công cụ và phương tiện thông tin, truyền thông phát triển như hiện nay, việc tăng cường quảng bá thông tin qua các hình thức tương tác sẽ phát huy hiệu quả lan truyền theo diện rộng và tạo cảm hứng trải nghiệm, khám phá đối với khách du lịch. Khách du lịch tiêu thụ các sản phẩm tại địa điểm sản xuất ra hàng hóa đã góp phần giảm bớt chi phí phân phối sản phẩm cho các nhà sản xuất, vì vậy những người sản xuất hàng hóa trực tiếp cần tăng cường chi phí đầu tư cho các hoạt động quảng bá, phân phối. Các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung cấp sản phẩm cần quan tâm hỗ trợ, chuyển giao công nghệ quảng bá để gia tăng hiệu quả kinh doanh trong cung cấp sản phẩm cho xã hội.
Đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ
Trong chuỗi giá trị sản phẩm, người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cho sản phẩm, dịch vụ tương xứng với giá trị. Đối với sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp thì điều này có ý nghĩa hơn vì chất lượng nông sản đóng góp tỷ lệ lớn trong giá thành sản phẩm. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả gia tăng lâu dài và phát triển bền vững, chất lượng sản phẩm, dịch vụ có vai trò quyết định đến sự sống còn của sản phẩm cụ thể, của địa phương và cộng đồng dân cư tại điểm đến du lịch. Công việc này cần có nhận thức đầy đủ và thường xuyên với sự tham gia của các cấp quản lý, người dân tham gia lao động sản xuất trực tiếp và các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị sản phẩm. Thực hiện tốt điều này, các sản phẩm du lịch sinh thái nông nghiệp mới khẳng định được thương hiệu và hiệu quả tích cực mới được thể hiện lâu dài…
Tài liệu tham khảo:
1. The “Glasgow Declaration for Climate Action in Tourism”, UN Climate Change Conference COP26.
2. Tourism for Sustainable Development, UNWTO
3. Kịch bản biến đổi khí hậu, Viện KTTVBĐKH.
4. Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch năm 2019 của Diễn đàn Kinh tế thế giới.
5. Báo cáo thường niên Du lịch Việt Nam năm 2018.
6. Báo cáo thường niên Du lịch Việt Nam năm 2019.