Nghiên cứu chuyên sâu về người tiêu dùng ở Nhật Bản cho thấy cảm giác Iyashi (chữa lành vết thương tinh thần) và Kawaii (dễ thương) mà mọi người tìm thấy ở động vật là động lực quan trọng nhất thôi thúc việc sở hữu vật nuôi kỳ lạ trong khi sự quý hiếm của động vật không phải là một yếu tố mạnh mẽ.
Trong số nhiều mối đe dọa mà động vật hoang dã đang phải đối mặt, buôn bán thú cưng là một trong những nhân tố chính thúc đẩy một số loài đến nguy cơ tuyệt chủng. Hoạt động buôn bán thú cưng độc lạ đang phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó Nhật Bản là một trong những nước tiêu thụ lớn nhất và cũng là nơi tạo ra xu hướng các quán cà phê nuôi động vật độc lạ đang lan rộng khắp châu Á.
Trước sự phổ biến ngày càng tăng của trào lưu tìm kiếm thú cưng độc lạ trên toàn cầu, nghiên cứu do GlobeScan thực hiện dưới sự ủy quyền của WWF Nhật Bản và TRAFFIC mong muốn tìm hiểu thái độ và động cơ cơ bản của người tiêu dùng Nhật Bản khi quyết định nuôi thú cưng độc lạ, qua đó hỗ trợ phát triển các sáng kiến hiệu quả nhằm thay đổi hành vi người mua thông qua các phương tiện truyền thông có mục tiêu và vận động xã hội, góp phần ngăn chặn sự suy giảm loài và bảo tồn đa dạng sinh học trên hành tinh.
Nghiên cứu tiết lộ nhiều bên liên quan bao gồm truyền thông, cửa hàng thú cưng và quán cà phê động vật là những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến việc mua thú cưng độc lạ và có thể thúc đẩy nhu cầu người tiêu dùng. Do đó, điều quan trọng là các nhóm đối tượng này phải chia sẻ có trách nhiệm, cung cấp thông tin về các rủi ro tiềm ẩn và đảm bảo mua sắm có trách nhiệm. Trường hợp loài rái cá vuốt bé (Aonyx cinereus) bị đe dọa là ví dụ điển
hình khi sự bùng nổ gần đây ở Nhật Bản được thúc đẩy bởi các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã dẫn đến sự gia tăng đột biến buôn bán bất hợp pháp loài này từ Đông Nam Á, theo nghiên cứu năm 2018 của TRAFFIC.
Cũng theo nghiên cứu, các yếu tố thúc đẩy quyền sở hữu vật nuôi hàng đầu trong số các chủ sở hữu hiện tại và chủ sở hữu dự định của vật nuôi độc lạ là ý tưởng về “Iyashi” (khả năng chữa lành vết thương tinh thần của động vật) và “Kawaii” (sự dễ thương của động vật) trong khi sự quý hiếm của động vật không phải là một yếu tố mạnh mẽ.
Trên thực tế, động cơ này khá tương đồng đối với việc sở hữu vật nuôi trong nhà và bản thân nhiều người có ý định sở hữu vật nuôi độc lạ cũng có ý định sở hữu vật nuôi trong nhà – điều này cho thấy phần lớn người tiêu dùng Nhật Bản không có sự phân biệt rõ ràng giữa vật nuôi thường và thú cưng độc lạ.
Thuật ngữ “thú cưng độc lạ” trong nghiên cứu thường đề cập đến những động vật không được coi là vật nuôi thông thường, chủ yếu là những loài có nguồn gốc từ nước ngoài và / hoặc hoang dã. Trong khi đó, vật nuôi trong nhà bao gồm các loài thân thuộc như chó, mèo, chuột đồng, chim hoàng yến, côn trùng hoặc cá.
Hiện có tới 2% dân số Nhật Bản sở hữu những vật nuôi độc lạ và 1% có ý định mua một thú cưng độc lạ. Đa số (67%) chủ sở hữu hiện tại và chủ sở hữu dự định tham gia vào nghiên cứu cho rằng gia đình và bạn bè đều ủng hộ họ nuôi thú cưng – điều này hoàn toàn trái ngược với chỉ 21% những người không sở hữu hoặc có ý định sở hữu vật nuôi độc lạ thực sự ủng hộ việc nuôi thú cưng độc lạ trong khi 31% phản đối và 47% thờ ơ.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng làm sáng tỏ về các nhóm người tiêu dùng cùng động lực cơ bản ảnh hưởng đến quá trình mua một thú cưng độc lạ của họ, chẳng hạn: ý định nuôi thú cưng độc lạ thường đến từ những người trẻ hơn (từ 18–34 tuổi) và có nhiều khả năng là sinh viên; các loài động vật độc lạ phổ biến là vẹt (22%), nhím (19%), loài gặm nhấm (18%), thằn lằn (15%) và rùa / ba ba (15%); 4/10 người có ý định (42%) mua một thú cưng độc lạ trong 12 tháng tới; các yếu tố ảnh hưởng hàng đầu đến ý định sở hữu thú cưng độc lạ là phương tiện truyền thông trên mạng xã hội (45%), ti vi (32%) và gia đình / họ hàng (29%); ba yếu tố (hợp lý, thuận tiện và liên kết tình cảm) quyết định động cơ sở hữu thú cưng độc lạ của chủ sở hữu và những người có ý định sở hữu thú cưng.
Nhu cầu vật nuôi thú cưng liên quan đến vô số vấn đề và hệ lụy bởi không chỉ đẩy các loài tiến tới nguy cơ tuyệt chủng và tạo điều kiện cho buôn bán bất hợp pháp mà còn có khả năng phát tán, lan truyền bệnh truyền nhiễm, vi phạm phúc lợi động vật và vô hình trung đưa các loài xâm lấn vào hệ sinh thái nội địa. Tuy nhiên, nhận thức của công chúng về những vấn đề này ở Nhật Bản còn thấp, theo phát hiện trong cuộc khảo sát do WWF Nhật Bản thực hiện vào tháng 3/2021.
Các phát hiện từ nghiên cứu cho thấy việc thúc đẩy các chủ sở hữu có ý định mua thú cưng cần cân nhắc lựa chọn thay thế phù hợp thông qua việc giảm mua các loài có rủi ro là điều cần thiết. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng hỗ trợ cho việc thiết kế các hoạt động hướng đến thay đổi hành vi người tiêu dùng nhờ việc tiếp cận chín xác đối tượng mục tiêu và các nhóm đối tượng gây ảnh hưởng. WWF Nhật Bản và TRAFFIC sẽ làm việc với nhiều đối tác và các bên liên quan để chuyển đổi các chuẩn mực xã hội, tiến tới thay đổi hành vi người tiêu dùng đối với vật nuôi độc lạ.
Linh Nhi