Xây dựng Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp thiết để bảo tồn đa dạng sinh học.
Sau gần 8 năm thực hiện Chiến lược 2020, công tác bảo tồn đa dạng sinh học đã đạt được những kết quả tích cực. Theo đó, hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên và khu vực có danh hiệu quốc tế được củng cố và mở rộng, nâng tổng số khu bảo tồn hiện có lên 176 khu với tổng diện tích 2.512.530,78 ha.
Hiện đã có 3 hành lang đa dạng sinh học kết nối các khu bảo tồn tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị với tổng diện tích là 521.878,28 ha. Các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái được chú trọng phục hồi. Việc bảo vệ các loài hoang dã và giống vật nuôi, cây trồng nguy cấp, quý hiếm cũng mang lại kết quả khả quan.
Tuy nhiên, một số mục tiêu của Chiến lược 2020 vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Do vậy, việc xây dựng Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp thiết để đa dạng sinh học được bảo tồn, phục hồi, phát triển và dịch vụ hệ sinh thái được sử dụng bền vững, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, mang lại lợi ích cho mọi người dân.
Theo đó, dự thảo Chiến lược 2030 đề ra 9 mục tiêu: Các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo vệ và phục hồi; nâng cao hiệu quả bảo tồn các loài hoang dã, đặc biệt các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, loài di cư; nguồn gene được duy trì bảo tồn và phát triển; sử dụng bền vững đa dạng sinh học; kiểm soát các hoạt động gây tác động xấu đến đa dạng sinh học; quản lý tiếp cận nguồn gene, chia sẻ lợi ích và bảo vệ nguồn gene; bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp; bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học đô thị; thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để đạt các mục tiêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) đề ra 6 giải pháp thực hiện, bao gồm: Hoàn thiện chính sách, pháp luật, thể chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; tiếp tục nâng cao ý thức trách nhiệm và huy động sự tham gia của toàn xã hội trong bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; đẩy mạnh lồng ghép và thực hiện các yêu cầu về bảo tồn đa dạng sinh học trong hoạch định chính sách, các dự án đầu tư công; thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển, chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; bảo đảm nguồn lực tài chính cho bảo tồn đa dạng sinh học; tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Bộ TN&MT là cơ quan chủ trì, tổ chức thực hiện Chiến lược. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược.