Báo cáo chỉ ra rằng lượng phát thải của ngành điện toàn cầu đã tăng trở lại trong nửa đầu năm 2021, từ mức thấp trong nửa đầu năm 2020, do đó lượng phát thải hiện cao hơn 5% so với mức phát thải giai đoạn trước đại dịch trong nửa đầu năm 2019.
Báo cáo mới được công bố hôm nay (25/8) của tổ chức nghiên cứu năng lượng Ember cho rằng, nhu cầu điện toàn cầu gia tăng trong nửa đầu năm 2021 đã vượt xa tốc độ tăng trưởng năng lượng sạch, dẫn đến sự gia tăng sử dụng điện than gây phát thải nhiều. Kết quả là, lượng phát thải của ngành điện toàn cầu tăng vọt so với thời kỳ trước đại dịch.
Theo lãnh đạo toàn cầu của Ember Dave Jones: Mức phát thải cao hơn vào năm 2021 sẽ gióng lên hồi chuông cảnh báo trên toàn thế giới… Một sự chuyển đổi hệ thống điện nhanh chóng trong thập kỷ này là điều rất quan trọng để hạn chế mức nhiệt toàn cầu.
Bản báo cáo cập nhật giữa năm cho Báo cáo đánh giá điện lực toàn cầu do Ember công bố lần này đã phân tích dữ liệu ngành điện lực từ 63 quốc gia chiếm 87% nhu cầu điện. Báo cáo so sánh sáu tháng đầu năm 2021 với cùng kỳ năm 2019, cho thấy quá trình chuyển đổi điện đã thay đổi như thế nào khi thế giới phục hồi sau tác động của đại dịch vào năm 2020.
Báo cáo chỉ ra rằng lượng phát thải của ngành điện toàn cầu đã tăng trở lại trong nửa đầu năm 2021, từ mức thấp trong nửa đầu năm 2020, do đó lượng phát thải hiện cao hơn 5% so với mức phát thải giai đoạn trước đại dịch trong nửa đầu năm 2019. Nhu cầu điện toàn cầu cũng tăng 5% trong nửa đầu năm 2021 so với trước đại dịch, nhu cầu này vốn chủ yếu được đáp ứng bằng năng lượng gió và mặt trời (57%) nhưng cũng đồng thời làm tăng mức sử dụng điện than gây phát thải nhiều (43%). Ngành điện khí hầu như không có sự thay đổi nào, trong khi thủy điện và điện hạt nhân giảm nhẹ. Lần đầu tiên, điện gió và điện mặt trời tạo ra hơn 10% lượng điện năng toàn cầu và vượt qua công suất của điện hạt nhân.
Không có quốc gia nào thực sự đạt được “phục hồi xanh” trong lĩnh vực năng lượng, nhiều quốc gia đã cam kết “gây dựng lại tốt hơn” và thúc đẩy nền kinh tế của họ chuyển sang trạng thái xanh mới thường thấy. Tuy nhiên, phân tích cho thấy, chưa có quốc gia nào thực sự đạt được “phục hồi xanh” cho ngành điện của họ, với sự thay đổi cơ cấu trong cả nhu cầu cao hơn về điện và lượng khí thải CO2 của ngành thấp hơn. Mặc dù, trong biểu đồ, Na Uy và Nga xuất hiện trong góc phần tư “phục hồi xanh”, nhưng điều này là do các yếu tố tạm thời – chủ yếu là do lượng mưa lớn hơn giúp sản lượng thuỷ điện cao hơn – chứ không phải do những cải thiện đáng kể trong cơ cấu ngành điện.
Một số quốc gia bao gồm Hoa Kỳ, các nước trong khối EU, Nhật Bản và Hàn Quốc đã đạt được mức phát thải CO2 trong ngành điện thấp hơn so với mức trước đại dịch, bằng việc thay thế một phần điện than bằng điện gió và điện mặt trời, nhưng chỉ trong bối cảnh nhu cầu điện bị kìm hãm tăng trưởng.
Các quốc gia có nhu cầu điện tăng cao cũng có lượng khí thải cao hơn, do sản lượng điện than cũng tăng lên như điện gió và điện mặt trời. Các quốc gia “phục hồi xám” chủ yếu ở châu Á. Các quốc gia này vẫn chưa giảm lượng khí thải và nhu cầu điện vẫn tăng.
Nhà phân tích cấp cao của Ember, Tiến sĩ Muyi Yang, cho biết: “Châu Á đang phát triển và phải tập trung vào việc đáp ứng mọi nhu cầu tăng trưởng bằng điện năng không phát thải carbon mới, như một bước đầu tiên trong hành trình hướng tới mục tiêu 100% điện sạch của khu vực trước giữa thế kỷ này. Châu Á đang phát triển và có thể bỏ qua việc sử dụng hóa thạch để chuyển thẳng sang sử dụng năng lượng tái tạo sạch, không tốn kém. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào việc liệu khu vực có thể đẩy nhanh hơn nữa quá trình cung cấp điện sạch tất yếu của mình trong khi đồng thời sử dụng điện hiệu quả hơn hay không”.