Theo đánh giá của các chuyên gia, dịch vụ khí hậu ở Việt Nam còn ở dạng tiềm năng, số lượng đơn vị cung cấp dịch vụ nhỏ lẻ, trong khi ngành nông nghiệp đang trên đà phát triển mạnh mẽ rất cần sự định hướng từ loại hình dịch vụ này.
Triển khai dịch vụ khí hậu nói chung và khí hậu nông nghiệp nói riêng đang rất cần sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, nhằm tạo ra hành lang pháp lý cũng như hệ thống cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, phục vụ nhu cầu ngày càng cao hiện nay.
Giảm thiệt hại do thiên tai
Vụ Đông Xuân năm 2019 – 2020 có thể coi là phép thử phản ứng của ngành nông nghiệp. Ngay từ đầu vụ, cơ quan khí tượng đã nhận định khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị hạn, mặn kỷ lục tương tự hoặc cao hơn mức độ vụ Đông Xuân 2015 – 2016. Trước thông tin này, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo các địa phương xuống giống sớm khoảng một tháng để tránh hạn, mặn. Với vùng có nguy cơ cao, dứt khoát không gieo cấy lúa. Nhờ đó, hầu hết các diện tích đã được thu hoạch trước thời điểm hạn, mặn xảy ra. Tương tự ở các tỉnh phía Bắc, dự báo vụ Đông Xuân sẽ ấm nên các địa phương đã gieo cấy tập trung vào trà xuân muộn, sử dụng các giống lúa ngắn ngày để đảm bảo lúa trổ vào thời điểm an toàn.
Theo TS. Nguyễn Văn Vương, đại diện Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), đây là ví dụ cho thấy, các thông tin khí hậu, khí tượng đã giúp cho nhà quản lý có định hướng sản xuất mùa vụ phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trên thực tế, những năm gần đây, sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan khiến ngành nông nghiệp ở nhiều địa phương ngày càng dễ bị tổn thương, thiệt hại nặng nề. Do vậy, nhu cầu khai thác sử dụng thông tin khí hậu phục vụ ra quyết định/quyết sách ngày càng cao, tùy thuộc người dùng và mục đích khác nhau như số liệu, bản đồ, các loại bản tin theo ngày, tuần, tháng, mùa, năm và kịch bản biến đổi khí hậu.
PGS, TS. Phạm Thị Thanh Ngà, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (KH KTTV&BĐKH) nhận định, cơ hội phát triển dịch vụ khí hậu nói chung và dịch vụ khí hậu nông nghiệp là rất rõ ràng, đến từ nhu cầu sử dụng thông tin ngày càng tăng, khách hàng sử dụng thông tin ngày càng nhiều (các cơ quan Nhà nước, cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp).
Trải qua hàng chục năm xây dựng và phát triển, ngành KTTV của Việt Nam đã hiện đại hóa hệ thống quan trắc tiệm cận với công nghệ của thế giới, giúp nâng cao chất lượng thông tin khí hậu của ngành. Đến nay, bắt đầu ứng dụng các thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển các hệ thống dịch vụ khí hậu nông nghiệp thông minh (CSA). Bên cạnh đó, các nghiên cứu cơ bản về mối quan hệ sinh học giữa yếu tố KTTV với cây trồng, quan hệ thống kê giữa khí hậu và nông nghiệp đã được đúc kết trong nhiều nghiên cứu, là căn cứ khoa học quan trọng phục vụ phát triển dịch vụ khí hậu nông nghiệp, đặc biệt là các bản tin tác động và khuyến cáo.
Theo Tổng cục Thống kê, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng xấp xỉ 14% GDP của cả nước và chiếm tới 70% dân số tham gia sản xuất. Mặc dù vậy, các chuyên gia cho rằng, dịch vụ khí hậu ở Việt Nam còn đang ở dạng tiềm năng, số lượng đơn vị cung cấp dịch vụ còn nhỏ lẻ. Các chính sách tạo điều kiện cho phát triển dịch vụ khí hậu còn hạn chế do việc các tiêu chuẩn, quy chuẩn và đánh giá cả quan trắc và dự báo vẫn đang trong quá trình xây dựng; thiếu các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với nhu cầu của nhiều người dùng tiềm năng…
Cần xây dựng khung dịch vụ khí hậu quốc gia
“Khung dịch vụ khí hậu quốc gia” (NFCS) là phương pháp phát triển dịch vụ khí hậu do Tổ chức Khí tượng thế giới WMO đưa ra, với cách tiếp cận theo chuỗi giá trị đến người dùng cuối cùng, nhấn mạnh vai trò của người dùng, sự tham gia của các bên liên quan và duy trì tương tác hai chiều giữa người cung cấp dịch vụ – người sử dụng dịch vụ.
Viện KH KTTV&BĐKH đã có đề xuất lộ trình xây dựng NFCS cho Việt Nam. Bước đầu cần đánh giá hiện trạng dịch vụ khí hậu, chuẩn bị hạ tầng, xác định nhu cầu sử dụng thông tin, xây dựng cơ chế chính sách… Từ đó, xây dựng và ban hành NFCS và thử nghiệm cung cấp dịch vụ, tiến tới chuyên nghiệp hóa, nâng cao năng lực. Trong đó, yếu tố then chốt để triển khai hiệu quả dịch vụ khí hậu là xác định đúng yêu cầu của người dùng, và cần được tiến hành theo các cấp từ cơ quan Trung ương, tỉnh, huyện đến cộng đồng.
Góp ý cho lộ trình này, Tổng cục Khí tượng Thủy văn (Bộ TN&MT) đề xuất có thể tập trung vào một số nội dung cộng đồng đang quan tâm. Cụ thể là nghiên cứu xu thế biến đổi nhiệt độ giai đoạn 2021-2100 theo kịch bản biến đổi khí hậu; nghiên cứu, cung cấp các thông tin dự báo khí hậu hạn mùa, năm tích hợp với thông tin hướng đối tượng (phụ thuộc vào ngành nghề cụ thể) giúp xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; mối tương quan giữa các cơ chế khí hậu với sự phát triển của nông nghiệp và an ninh lương thực; Khai thác thông tin khí hậu quá khứ (số liệu quan trắc lịch sử) để phục vụ cung cấp thông tin vi khí hậu cho các ngành nghề trong xã hội (xây dựng, quy hoạch đô thị, nông nghiệp…).
Bên cạnh đó, tư vấn, cung cấp thông tin về các tài nguyên khí hậu tiềm năng (năng lượng gió, bức xạ, nước,…) ở các khu vực cụ thể để phục vụ việc khai thác, phát triển hiệu quả cho các ngành nghề phù hợp… Theo TS. Hoàng Phúc Lâm, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia, Trung tâm sẽ công bố “Maproom dịch vụ khí hậu” hiện đại trong năm 2021 – sản phẩm hợp tác với IRI (Hoa Kỳ).
Theo đại diện tổ chức CARE Việt Nam, Khung quốc gia về dịch vụ khí hậu hiện không nằm trong chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đưa nội dung này vào Kế hoạch hành động ứng phó BĐKH của ngành nông nghiệp, Kế hoạch thích ứng quốc gia giai đoạn 2020 – 2030 và các văn bản chính sách có liên quan; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành trong quá trình xây dựng khung; nghiên cứu bài học kinh nghiệm quốc tế và rà soát, đánh giá các mô hình về dịch vụ khí hậu đã thực hiện tại một số địa phương.