Quy định pháp luật về việc quản lý và gây nuôi động vật hoang dã còn chồng chéo. Vì vậy, việc điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp lý là điều cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ động vật hoang dã – Bài 1: “Lợi bất cập hại” ở các cơ sở nuôi nhốt
Luật pháp không thiếu…
Theo Tiến sỹ Lê Văn Hương, Giám đốc Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà (tỉnh Lâm Đồng), để quản lý động vật hoang dã nói chung, trong đó có hoạt động nuôi động vật hoang dã nói riêng, Nhà nước đã quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Luật Chăn nuôi 2018, Luật Thủy sản năm 2017 và được cụ thể hoá tại các Nghị định như: Nghị định số 160/2013/NĐ-CP của Chính phủ về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; Nghị định số 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản
Kèm theo đó là các chế tài xử lý vi phạm từ hành chính đến hình sự đối với các hoạt động săn, bắt, tàng trữ, vận chuyển, nuôi nhốt động vật hoang dã gồm: Nghị định số 35/2019/NĐ-CP, ngày 25/04/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực Lâm nghiệp; Nghị định số 42/2019/NĐ-CP, ngày 16/5/2019 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực Thuỷ sản; Nghị định 155/2016/NĐ-CP, ngày 18/11/2016 của Chính phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13, sửa đổi 2017 gồm các Điều 234 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã ” và Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”. Theo đó, tội phạm trong lĩnh vực động vật hoang dã được pháp luật xem là loại hình tội phạm nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng.
Việt Nam cũng đã tham gia Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). Mục tiêu của công ước là kiểm soát buôn bán quốc tế các mẫu vật động vật, thực vật hoang dã nguy cấp được bền vững. CITES không cấm buôn bán, nuôi sinh sản, sinh trưởng động vật hoang dã vì mục đích thương mại, tuy nhiên, có một số loài bị cấm nuôi, trong đó có hổ. CITES quy định khá đầy đủ trình tự, thủ tục, điều kiện để nuôi các loài động vật hoang dã có tên trong Phụ lục CITES. Một trong các điều kiện tiên quyết và xuyên xuốt đó là “Việc nuôi động vật hoang dã không được làm ảnh hưởng đến sự sinh tồn của loài trong tự nhiên”.
Mới đây, ngày 14/2/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 679 về tăng cường quản lý động vật hoang dã và kiểm soát việc nuôi nhốt, buôn bán, tiêu thụ trái phép. Tiếp đó, ngày 23/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 29/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách quản lý động vật hoang dã, yêu cầu các bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện nghiêm túc các giải pháp quản lý động vật hoang dã gây nuôi, tăng cường chỉ đạo các biện pháp giám sát dịch bệnh, vệ sinh thú y tại các cơ sở chăn nuôi, kinh doanh động vật hoang dã. Tuy vậy, từ luật pháp đến thực tế còn có khoảng cách, vì vậy cần thường xuyên có sự hoàn thiện và điều chỉnh.
… Cần điều chỉnh, hoàn thiện
Theo ông Trịnh Lê Nguyên, Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Chỉ thị 29 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp cấp bách quản lý động vật hoang dã có ý nghĩa đôn đốc các bộ, ngành, địa phương trong công tác bảo vệ động vật hoang dã, chứ không thay thế các điều khoản trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới bảo vệ động vật hoang dã như: Luật Bảo vệ phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Bộ Luật hình sự. Vì thế, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành xem xét, đề xuất đánh giá, sửa đổi các văn bản luật liên quan theo hướng chặt chẽ hơn, bổ sung chế tài cho phù hợp với thực tế hoạt động gây nuôi động vật hoang dã ở Việt Nam.
Theo đó, phải tăng cường năng lực cho cơ quan thực thi pháp luật để kiểm soát việc gây nuôi động vật hoang dã trái phép và không bền vững. Cụ thể, đào tạo về nội dung và mục tiêu của các Nghị định liên quan đến bảo vệ động vật hoang dã; rà soát, điều chỉnh hoàn thiện khung pháp lý về quản lý và bảo vệ các loài động vật hoang dã để xóa bỏ các lỗ hổng, chồng chéo và bất cập. Ngoài ra, cần có sự rõ ràng trong phân công trách nhiệm thực hiện hiệu quả công tác này trong hiện tại và tương lai.
Đồng quan điểm với ý kiến trên, ông Lưu Trung Kiên, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Pù Mát (tỉnh Nghệ An) cho rằng tất cả những chính sách hoặc văn bản pháp luật liên quan đến sự đa dạng sinh học của Việt Nam cần phải được nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ban hành. Việc gây nuôi các loài động vật hoang dã, kể cả các loài thông thường, chỉ được phép tiến hành khi có căn cứ khoa học chứng minh rõ rằng việc gây nuôi thương mại những loài đó không ảnh hưởng tới các quần thể của chúng trong tự nhiên. Việt Nam chỉ nên cho phép gây nuôi thương mại những loài đã có đánh giá tác động kĩ lưỡng. Theo đó, hoạt động khai thác hợp pháp trong tự nhiên (để làm nguồn giống ban đầu, nguồn giống bổ sung thường xuyên) không ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển bền vững của các quần thể loài đó trong tự nhiên.
Đồng thời, cần tạo sinh kế bền vững cho người dân, đặc biệt là đối với những người sống gần các khu vực có rừng để làm giảm áp lực đối với việc săn bắn, bắt, bẫy các loài động vật hoang dã. Ngoài ra, cần hướng dẫn, khuyến khích cộng đồng sống ở các vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng phòng hộ tham gia bảo vệ và bảo tồn các loài động vật hoang dã, góp phần bảo tồn động vật hoang dã.