Chỉ trong vòng vài năm qua đã có khá nhiều vụ núi đá giữa vịnh Hạ Long bị sạt lở. Theo đại diện Ban quản lý vịnh Hạ Long, tất cả các vụ sạt lở đều do tự nhiên và việc sạt lở núi giữa vịnh Hạ Long sẽ không dừng ở đó.
Ban Quản lý vịnh Hạ Long vừa thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh về “Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng sạt lở, đổ lở và xói lở bờ hệ thống đảo làm cơ sở cho việc quản lý, bảo tồn và khai thác hợp lý giá trị di sản phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử Long”.
Trong vòng 24 tháng, nhóm tác giả của đề tàu này đã điều tra, nghiên cứu điều tra, nghiên cứu hiện trạng trượt lở chi tiết 24 vùng ở vịnh Hạ Long và 1 vùng – Đảo Trà Bản, Bái Tử Long và thành lập bản đồ hiện trạng trượt lở, đổ lở và xói lở bờ hệ thống đảo cho 25 vùng tỷ lệ 1/10.000.
Tại vịnh Hạ Long, 24 vùng được nghiên cứu đều nằm trong vùng lõi của di sản và không có dân sinh sống. Tổng cộng, 24 vùng này có 596 điểm có nguy cơ trượt lở, đổ lở. Trong đó, ở một số vùng có đã và đang có nguy cơ xảy ra trượt lở cao như hòn Vạn Bội, hòn Dầm Nam, hòn Bồ Hòn, hòn Vụng Hà, đảo Cống Đỏ, hòn Cây Chanh, hòn Cọc Chèo, đảo Đầu Bê, hòn Bái Đông…
Khu vực vịnh Hạ Long được cấu tạo chủ yếu là đá vôi sạch, có độ thuần vôi cao. Thành phần khá sạch của đá vôi với hàm lượng CaCO3 thường chiếm trên 95% là yếu tố quan trọng cho tiến trình hòa tan ăn mòn. Đặc điểm kiến trúc – cấu tạo của đá vôi của khu vực nghiên cứu cũng thuận lợi cho karst hóa.
Hệ thống khe nứt trong đá vôi là những đường dẫn thuận lợi cho nước mưa đi sâu vào trong đá để đẩy mạnh quá trình karst hóa. Đồng thời, tác động của các yếu tố ngoại sinh như: sóng, gió, dao động mực nước biển… vào các đảo đá vôi nêu trên đã gây ra các hiện tượng tai biến địa chất như sập sụt, đổ lở các núi đá.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá hiện trạng cùng các tác nhân gây ra hiện tượng sạt lở, đổ lở và xói lở bờ khu vực vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, nhóm nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp.
Trong đó, đối với các đảo đá vôi – nơi có các tuyến du lịch hoặc tàu neo đậu, nên có biển cảnh báo hoặc sử dụng một số biện pháp kỹ thuật như xây dựng lưới chắn hoặc neo đá để đảm bảo an toàn cho các hoạt động dân sinh. Đối với các đảo có thành phần trầm tích lục nguyên, nên sử dụng kết hợp hài hòa các phương pháp gia cố. Cụ thể, đối với các điểm bị sạt – trượt lở dọc theo các rãnh xâm thực giật lùi có thể sử dụng phương pháp thoát nước kết hợp với trồng cỏ vetiver để ngăn chặn sự xâm thực của rãnh xói, gia cố sườn dốc hai bên rãnh xói.
Ngoài ra, cần lắp đặt hệ thống quan trắc cảnh báo sạt lở, đổ lở và xói lở bờ hệ thống đảo khu vực nghiên cứu, trong đó có quan trắc tốc độ ăn mòn chân đảo; quan trắc sự dịch chuyển của các hệ thống khe nứt…