Dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xem xét tại Phiên họp thứ 47 diễn ra vào sáng 12/8. Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển điều hành phiên họp về nội dung này.
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã xem xét, cho ý kiến về Dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi). Thực hiện sự chỉ đạo của UBTVQH, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KHCN&MT) đã phối hợp với Bộ TN&MT, Thường trực Ủy ban Pháp luật, Văn phòng Chính phủ và một số cơ quan hữu quan nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thảo luận tại Tổ và Hội trường, đồng thời tổ chức hội thảo, hội nghị lấy ý kiến góp ý của các bộ, ngành, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học.
Báo cáo về một số vấn đề lớn tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT Phan Xuân Dũng cho biết: Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng và nguyên tắc bảo vệ môi trường, nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH đề nghị bổ sung cụm từ “cộng đồng dân cư” vào Điều 1 và Điều 2, Thường trực Ủy ban KHCN&MT nhận thấy cộng đồng dân cư có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường (BVMT), việc bổ sung cụm từ “cộng đồng dân cư” trong hoạt động BVMT là cần thiết nhằm phát huy hơn nữa vị trí, vai trò quan trọng của cộng đồng dân cư đối với công tác BVMT. Do đó, đã tiếp thu, bổ sung như tại Điều 1 và Điều 2 của dự thảo Luật. Đồng thời, dự thảo Luật cũng đã quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của cộng đồng dân cư như tại Điều 165.
Về ý kiến đề nghị cần cân nhắc nội dung nguyên tắc “coi chất thải là tài nguyên” để tránh tình trạng các tổ chức, cá nhân lợi dụng nguyên tắc này khi thực hiện các biện pháp thu gom, xử lý chất thải, Thường trực Ủy ban KHCN&MT và Bộ TN&MT đã tiếp thu và làm rõ hơn nội dung này như sau: Việc coi chất thải là tài nguyên nhằm định hướng cách thức quản lý, ứng xử với chất thải trên cơ sở tận dụng tối đa giá trị từ chất thải mang lại, tăng cường tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng từ việc xử lý chất thải, đồng thời để thể hiện rõ nội hàm cơ bản của nền kinh tế tuần hoàn, phù hợp với xu thế trên thế giới hiện nay.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để tránh việc lợi dụng nguyên tắc này, dự thảo Luật đã chỉnh lý, thể hiện rõ hơn nội hàm của việc “coi chất thải là tài nguyên” bằng nguyên tắc “Bảo vệ môi trường phải dựa trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên, giảm thiểu, tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải để khai thác tối đa giá trị tài nguyên của chất thải” như tại Khoản 4 Điều 4 của dự thảo Luật.
Về quy hoạch BVMT, phân vùng môi trường (Chương III), theo ông Phan Xuân Dũng, có ý kiến đề nghị rà soát cho phù hợp nội dung quy hoạch BVMT quốc gia, với Luật Quy hoạch. Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH và để bảo đảm tính chặt chẽ, đồng bộ với Luật Quy hoạch, Thường trực Ủy ban KHCN&MT và Bộ TN&MT đã thống nhất chỉnh lý, biên tập lại quy định về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch BVMT; nội dung quy hoạch BVMT quốc gia; nội dung BVMT trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh như tại các Điều 23, Điều 24 và Điều 25 của dự thảo Luật.
Về đánh giá tác động môi trường sơ bộ và phân loại dự án đầu tư theo mức độ tác động đến môi trường, một số ý kiến đề nghị rà soát quy định đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường cho phù hợp với Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công.
Về nội dung nêu trên, Thường trực Ủy ban KHCN&MT trình UBTVQH 2 phương án. Phương án 1 (Phương án Chính phủ trình): Tại dự thảo Luật của Chính phủ trình Quốc hội Kỳ họp thứ 9 có bổ sung quy định về đánh giá sơ bộ tác động môi trường với những dự án có tác động xấu đến môi trường mới phải thực hiện, trong khi đó Luật BVMT năm 2014 chưa có quy định này.
Phương án 2 (Phương án tiếp thu ý kiến ĐBQH): Như được thể hiện tại Điều 30 “Đánh giá tác động môi trường sơ bộ” của dự thảo Luật là dựa trên cơ sở phân loại dự án đầu tư theo mức độ tác động đến môi trường và quy định chỉ các dự án thuộc nhóm I (Nhóm có tác động môi trường ở mức độ cao) mới là đối tượng phải thực hiện. Phương án này có ưu điểm là có thể áp dụng các tiêu chí môi trường để làm căn cứ xuyên suốt trong việc xác định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường sơ bộ và các thủ tục môi trường khác. Nếu thực hiện phương án này cũng như Phương án 1 thì phải sửa một số quy định liên quan đối tượng phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường của Luật Đầu tư công để bảo đảm tính thống nhất.
Ý kiến của Thường trực Ủy ban KHCN&MT và Bộ TN&MT nhất trí với phương án 2.
Về đánh giá tác động môi trường, một số ý kiến đề nghị xem lại đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM); cân nhắc quy định về chứng chỉ hành nghề đối với tổ chức tư vấn làm báo cáo ĐTM; quy định rõ hơn trách nhiệm của hội đồng thẩm định; bổ sung quy định về tổ chức và hoạt động của hội đồng thẩm định.
Thường trực Ủy ban KHCN&MT và Bộ TN&MT nhất trí với ý kiến ĐBQH và nhận thấy việc xem lại đối tượng phải lập ĐTM là cần thiết và quy định cụ thể hơn về cơ sở vật chất, trình độ, năng lực của tổ chức tư vấn cũng như điều kiện về trình độ chuyên môn đối với thành viên hội đồng thẩm định ĐTM trong Luật là hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật và chất lượng lập, thẩm định báo cáo ĐTM.
Về giấy phép môi trường, một số ý kiến đề nghị giải trình, làm rõ việc tích hợp các giấy phép về môi trường, trong đó bao gồm cả giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi. Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban KHCN&MT kính trình UBTVQH 2 phương án. Phương án 1 (Phương án Chính phủ trình): Chỉ dùng một loại giấy phép môi trường, trong đó bao gồm cả nội dung cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi, thay thế 7 loại giấy tờ thủ tục hành chính về môi trường. Phương án 2: Vẫn có giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi đã được quy định trong Luật Thủy lợi mới được thông qua năm 2017 và đang được triển khai thực hiện một cách thuận lợi. Tuy nhiên, quy định về vấn đề này cần phải điều chỉnh cách thể hiện để không ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà nước mà Chính phủ đã giao cho Bộ TN&MT.
Về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường (Chương X), có ý kiến cho rằng tiêu chí phân loại sự cố môi trường còn chung chung và chỉ dựa trên phạm vi địa giới hành chính, đề nghị cần quy định về phân loại sự cố môi trường hợp lý hơn, làm cơ sở để quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường.
Nghiên cứu tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH và ý kiến chuyên gia, dự thảo Luật đã chỉnh sửa theo hướng quy định về phân cấp sự cố môi trường thay cho phân loại sự cố môi trường, theo đó đã quy định sự cố môi trường có 4 cấp (cấp cơ sở, cấp huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia) xác định theo phạm vi ảnh hưởng về không gian, địa giới hành chính như tại khoản 2 Điều 125.
Về quản lý chất thải rắn sinh hoạt, có nhiều ý kiến đề nghị cần quy định chặt chẽ việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn; rà soát các quy định về kinh phí chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải và quy định cụ thể lộ trình bắt buộc thực hiện tính chi phí phải trả dựa trên khối lượng, chủng loại phát sinh để bảo đảm tính khả thi.
Theo ông Phan Xuân Dũng, vấn đề quản lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân từ lúc phát sinh đến việc thu gom, vận chuyển và xử lý là vấn đề bức xúc, cấp thiết đặt ra đối với hầu hết các khu vực đô thị và nông thôn hiện nay. Đây là những nội dung quy định mới, tiến bộ về quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong Dự thảo Luật được nhiều ĐBQH ủng hộ, dư luận quan tâm.
Các quy định về phân loại, tính chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng, chủng loại là nhằm khuyến khích phân loại chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân, bảo đảm công bằng trong việc chi trả phí thu gom, vận chuyển, xử lý theo hướng phát sinh nhiều thì trả tiền nhiều, không cào bằng, bình quân theo đầu người như hiện nay. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy sẽ cần một thời gian nhất định để các quy định này được áp dụng và vận hành ổn định. Vì vậy cần phải có lộ trình thực hiện phù hợp với điều kiện KT-XH của từng địa phương, khu vực.
Tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt thành 3 loại cơ bản và căn cứ điều kiện KT-XH của từng địa phương, UBND cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt khác như tại Điều 76, đồng thời giao Bộ trưởng Bộ TN&MT hướng dẫn kỹ thuật về phân loại chất thải rắn sinh hoạt; hướng dẫn hình thức thu giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo khối lượng, chủng loại phát sinh tại khoản 5 Điều 80.
Về lộ trình thực hiện, giao UBND cấp tỉnh ban hành quy định chi tiết về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân thuộc địa bàn quản lý; quy định giá tối đa đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN); quy định cụ thể hình thức và mức kinh phí hộ gia đình, cá nhân phải chi trả cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên lượng, chủng loại chất thải phát sinh trước ngày 1/1/2025 như tại khoản 6 Điều 80 của dự thảo Luật.
“Đây là nội dung bắt buộc phải làm của một quốc gia tiên tiến, văn minh, để thực hiện quy định này phải thay đổi thói quen, tập quán lạc hậu, cần sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị nên cần có quyết tâm chính trị cao. Do đó Thường trực Ủy ban KHCN&MT xin UBTVQH cho ý kiến chỉ đạo”, ông Phan Xuân Dũng phát biểu.