Nghiên cứu tranh cãi gần đây của Trung Quốc phủ nhận các đập thủy điện nước này gây hạn hán ở hạ lưu sông Mê Kông. Đây đang trở thành mặt trận mới trong cạnh tranh Mỹ – Trung.
Nghiên cứu tháng 7 của Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh và Viện Thủy lợi Trung Quốc lập luận rằng các đập của nước này thực ra đang giúp giảm vấn đề hạn hán, lũ lụt bằng cách giữ nước vào mùa mưa và xả nước vào mùa khô.
Tuy nhiên trước đó, nghiên cứu của Mỹ cho thấy các đập của Trung Quốc đã giữ lượng nước kỷ lục, khiến hạ lưu sông Mê Kông khô hạn. Giới phân tích cho rằng các nghiên cứu trái chiều là dấu hiệu sông Mê Kông đang trở thành mặt trận mới giữa Mỹ – Trung, nhằm định hướng quan điểm ở Đông Nam Á về các đập thủy điện cũng như về quan hệ với Trung Quốc, theo South China Morning Post.
Năm ngoái, hạn hán ở hạ lưu sông Mê Kông tồi tệ đến một số nước hạ lưu phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp, còn Thái Lan phải điều quân đội tới cứu trợ.
Nghiên cứu bị phản bác
Báo chí ở các nước hạ lưu đã liên hệ nạn khô hạn với việc các đập Trung Quốc ở thượng nguồn giữ nước lại để phát điện. Sự nghi ngờ đó được củng cố với báo cáo vài tháng trước của công ty tư vấn Eyes on Earth, kết luận rằng các đập Trung Quốc đã giữ lại 47 tỷ m3 nước.
Báo cáo này được đặt hàng bởi Nhóm đối tác Hạ tầng Bền vững (do Liên hợp quốc hỗ trợ) và Sáng kiến Hạ lưu sông Mê Kông, nhóm hợp tác giữa Mỹ và các nước vùng Mê Kông ngoại trừ Trung Quốc.
Trong khi đó, nghiên cứu của phía Trung Quốc lại vẽ nên bức tranh khác, cho rằng hạn hán là do yếu tố môi trường như nhiệt độ cao, lượng mưa giảm.
Nghiên cứu này cho rằng Trung Quốc mới là nước có nguy cơ hạn hán cao nhất trong các nước có sông Mê Kông chảy qua, trong đó trung bình tần suất hạn hán nghiêm trọng ở vùng Mê Kông là 7%, trong khi ở phần thượng lưu và trung lưu, nơi có các đập Trung Quốc, thì tần suất là 12%.
Hàng loạt nghi vấn về nghiên cứu Trung Quốc
Nhiều chuyên gia hoài nghi kết luận của phía Trung Quốc. Marc Goichot, người đứng đầu Sáng Kiến Nước Khu vực Mê Kông Mở rộng của Quỹ Thú hoang dã Thế giới (WWF), đồng ý với nghiên cứu Trung Quốc rằng lượng mưa thất thường là một trong các nguyên nhân gây hạn hán. Nhưng ông nói hoạt động của con người có vai trò lớn.
Brian Eyler, Giám đốc chương trình Đông Nam Á của Viện Stimson, viện chính sách trụ sở ở Washington chỉ ra rằng hạn hán cũng diễn ra vào mùa mưa và nói nghiên cứu của Trung Quốc không giải thích được điểm này.
Ông Eyler nêu một điều tra của Viện Stimson nói các đập Nọa Trát Độ và Tiểu Loan của Trung Quốc giữ lại khoảng 20 tỷ m3 nước giữa tháng 7-11 năm ngoái. Nghiên cứu trên dựa vào ảnh vệ tinh và các tuyên bố công khai của cơ quan quản lý lưới điện phía nam Trung Quốc.
“Hiện ảnh vệ tinh cho thấy các đập này một lần nữa đang giới hạn cùng lượng nước như vậy, sẽ tiếp tục từ tháng 7/2020 cho đến cuối năm… mực nước ở dòng chính Mê Kông sẽ lại xuống thấp kỷ lục”, ông Eyler nói với South China Morning Post.
Nhà nghiên cứu Sebastian Biba của Đại học Goethe Frankfurt cũng đồng ý rằng có yếu tố môi trường như biến đổi khí hậu, nhưng cho rằng vấn đề đang bị các đập Trung Quốc làm trầm trọng thêm. “Dù tỷ lệ (đóng góp vào vấn đề) là 50:50, 70:30, hay 80:20 thì khó nói. Nhưng ít nhất, phía Trung Quốc chưa làm gì nhiều để làm giảm các lo ngại rằng các đập của họ đang là một trong những nguyên nhân”, ông Biba nói.
Tác hại của can thiệp dòng chảy
Các nhà phân tích cũng đặt dấu hỏi về kết luận của Trung Quốc nói các hồ chứa giúp giảm hạn hán cho khu vực.
Ông Eyler, cũng là tác giả cuốn sách Last Days of the Mighty Mê Kông (Những ngày cuối của sông Mê Kông oai hùng) nói sự thay đổi về mùa cũng có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái của khu vực.
“Việc chuyển từ mùa khô sang mùa mưa một cách tự nhiên, cùng với các trận lũ về, tạo ra khoảng 15-20% cá nước ngọt của thế giới, và là nền tảng của an ninh kinh tế đối với các nước hạ lưu”, ông nói.
Trong khi đó, Mạng lưới Người dân Mê Kông Thái Lan nói việc giữ nước rồi xả nước vào mùa khô của đập Trung Quốc là “trái với nhịp tự nhiên”, vì lũ là hiện tượng tự nhiên vào mùa mưa.
“Đây (mùa khô) là lúc mà cá và các loài thủy sinh khác bơi ngược dòng lên phần trên của sông Mê Kông và các sông nhánh để sinh sản”, mạng lưới này cho biết trong một thông cáo gửi đại sứ quán Trung Quốc tháng 7/2019, nêu chi tiết cuộc sống của người dân ở 8 tỉnh Thái Lan bị ảnh hưởng nặng nề thế nào.
“Khi các đập thượng nguồn trữ nước vào mùa mưa, ít nước chảy xuống hạ lưu, sẽ làm đảo lộn vòng đời tự nhiên của cá, ngăn không cho nước chảy vào vùng đất ngập nước, tác động đến con người và hệ sinh thái”.
Bức thư của Mạng lưới Người dân Mê Kông Thái Lan nói các ghềnh, tảng đá, bãi cạn thường hiện ra vào mùa mưa có các chức năng sinh thái mang tính sống còn, chẳng hạn tạo chỗ đẻ trứng cho hàng triệu con chim. Những loài vật này mất đi môi trường sống và vòng sinh sản bị gián đoạn bởi các con đập.
Mực nước sông lên xuống không theo mùa, do sự can thiệp của các con đập, cũng khiến thảm thực vật bị mất đi, ảnh hưởng nguồn thực phẩm và sinh kế của các cộng đồng.
Gary Lee, lãnh đạo của tổ chức International Rivers chuyên bảo vệ các dòng sông ở Đông Nam Á, nói các đập của Trung Quốc trên thực tế đã giảm lượng nước được xả ra trong tháng 7-8/2019.
“11 đập của Trung Quốc trên sông Mê Kông làm gián đoạn dòng chảy của nước, phù sa, các chất dinh dưỡng, và có ảnh hưởng kinh hoàng lên hệ sinh thái và tài nguyên thủy sinh vốn rất quan trọng với các cộng đồng sống ở hạ lưu”, ông Lee nói.
Các nhà nghiên cứu Marko Kallio của Đại học Aalto, cùng với Timo Räsänen và Tarek Ketelsen của công ty Amperes nói các hồ chứa của Trung Quốc đang được dùng chỉ cho mục đích phát điện.
Các nhà nghiên cứu không thấy bằng chứng nào cho thấy chiến lược quản lý các đập này có bao gồm kiểm soát lũ hay hạn hán.
Lũ tự nhiên có ích cho vùng Mê Kông
Ông Eyler nói trong lịch sử, lũ lụt không bị coi có tính thảm họa đối với khu vực Mê Kông, dẫn ra báo cáo năm 2017 của Ủy hội sông Mê Kông (MRC) ước tính mùa mưa lũ tạo ra 8-10 tỷ USD lợi ích, trong khi gây thiệt hại chỉ dưới 70 triệu USD. MRC là tổ chức liên chính phủ cùng quản lý nước sông Mê Kông, có sự tham gia của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam.
“Vì vậy, lợi ích của dòng chảy tự nhiên vượt xa thiệt hại do lũ lụt mang lại khoảng 100 lần. Dòng chảy tự nhiên của sông Mê Kông là nền tảng cho an ninh kinh tế ở hạ lưu Mê Kông”, ông Eyler nói. “Việc Trung Quốc thay đổi dòng chảy tự nhiên bằng các đập thượng nguồn, đẩy các thiệt hại xuống hạ lưu, sẽ làm mất đi sự ổn định của khu vực”.
MRC cũng ước tính lượng phù sa ở sông Mê Kông đã giảm 77%, so với điều kiện tự nhiên của những năm 1990.
“Vì vậy, lòng sông Mê Kông đang hạ thấp… có nghĩa vùng đồng bằng này đang lún xuống, làm giảm hơn nữa nguồn nước ngọt”, ông Goichot từ WWF phân tích thêm.
MRC chỉ đồng ý với nghiên cứu mới của phía Trung Quốc về một điểm: hạn hán sẽ tiếp tục tăng cả về tần suất và mức nghiêm trọng.
Ông Sebastian Biba, nhà nghiên cứu của Đại học Goethe Frankfurt, nói để giảm sự bất đồng, chia rẽ giữa các bên về chủ đề sông Mê Kông, cần phải chia sẻ dữ liệu. Ông Biba nói về mặt này, Trung Quốc đang tỏ ra bất hợp tác.
“Dữ liệu có ở đó, vì thế hoàn toàn có thể công khai. Việc Trung Quốc không dám làm vậy cho thấy rõ là Trung Quốc có gì đang giấu giếm”, ông nói. “Các nước hạ lưu, các nhóm hoạt động trong khu vực, các cộng đồng ven sông… đều đang nghi ngờ Trung Quốc và ý đồ của họ”.
“Hiện tại, Trung Quốc chỉ chia sẻ dữ liệu mùa lũ, không phải dữ liệu mùa khô hay dữ liệu về lượng phù sa”.