Buôn bán thịt động vật hoang dã có nguy cơ cao đe dọa các hệ sinh thái và tăng nguy cơ phơi nhiễm dịch bệnh lây truyền từ động vật sang người.
Trong một báo cáo mới ra ngày 10/7, WWF cảnh báo một cuộc khủng hoảng bẫy dây đang tàn sát các loài hoang dã tại khu vực Đông Nam Á và làm tăng nguy cơ lây truyền dịch bệnh bắt nguồn từ động vật sang người. Báo cáo này cũng ước tính con số bẫy dây đặt trong các khu bảo tồn của các quốc gia trong khu vực.
Theo báo cáo Sự im lặng của những chiếc bẫy dây: Khủng hoảng đặt bẫy dây ở Đông Nam Á, ước tính có khoảng 12,3 triệu bẫy dây đang đe doạ các loài động vật hoang dã trong các khu bảo tồn ở Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam, những quốc gia có nạn đặt bẫy nghiêm trọng nhất trong khu vực.
Những chiếc bẫy thô sơ này, thường được làm từ dây phanh xe đạp hay dây cáp, làm tăng tần suất tiếp xúc giữa người và các loài hoang dã, do đó tăng nguy cơ lan truyền các bệnh truyền nhiễm bắt nguồn từ động vật sang người. Các nhà nghiên cứu đã xác định rất nhiều loài mục tiêu của hoạt động đặt bẫy, như lợn rừng, cầy, và tê tê, thuộc nhóm các loài có nguy cơ cao mang các bệnh truyền nhiễm.
Ông Stuart Chapman, người đứng đầu Sáng kiến Tigers Alive của WWF chia sẻ: “Các bẫy thú này đang gây ra sự chết chóc khủng khiếp cho các loài hoang dã, quét sạch bóng dáng của chúng khỏi những khu rừng, từ hổ đến voi, cầy vòi hương và tê tê. Nếu chính phủ các quốc gia Đông Nam Á không khẩn trương hành động, những loài động vật hoang dã này sẽ không có cơ hội tồn tại”.
“Nạn đặt bẫy chính là mối đe doạ hàng đầu đối với loài hổ trong khu vực. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc loài hổ được coi là đã tuyệt chủng ở Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam. Nếu không có những biện pháp quyết liệt, nạn đặt bẫy thú sẽ dẫn đến một làn sóng tuyệt chủng ở khắp các quốc gia châu Á”, ông Stuart Chapman nhấn mạnh.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng thịt thú rừng làm món ăn đặc sản trong khu vực đô thị, việc đặt bẫy đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hơn 700 loài thú bao gồm những loài đang có nguy cơ tuyệt chủng cao như voi châu Á, hổ, sao la và bò rừng. Khi mắc bẫy, động vật phải chịu đau đớn vài ngày hoặc hàng tuần trước khi chết bởi các vết thương, và, rất hiếm khi, nếu chúng có thể thoát khỏi bẫy thì chúng cũng chết bởi các vết thương hoặc do nhiễm trùng.
Belum-Temengor, Malaysia là một trong số ít những khu bảo tồn hổ quan trọng nhất của Đông Nam Á, từ năm 2009 – 2018, đã mất đi 50% số lượng quần thể hổ chủ yếu do bị đặt bẫy tràn lan.
Bà Sophia Lim, Giám đốc Điều hành của WWF-Malaysia chia sẻ: “Chỉ tháo dỡ các bẫy thôi thì chưa đủ. Chính phủ các quốc gia Đông Nam Á phải tăng cường thực thi luật pháp, cải thiện hệ thống pháp luật để ngăn chặn đặt bẫy một cách hiệu quả và quan trọng hơn là kêu gọi sự tham gia của người dân bản địa và các cộng đồng địa phương trong cuộc chiến này.”
Cần có những hành động cấp bách để giải quyết mối đe dọa này đối với các loài hoang dã, các hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Chính phủ các nước cần phải ngăn chặn việc mua bán, vận chuyển và tiêu thụ các loài động vật hoang dã có nguy cơ lây truyền dịch bệnh sang người cao, bao gồm hầu hết các loài móng guốc và các loài động vật ăn thịt – mục tiêu chính của các hoạt động đặt bẫy. Để các biện pháp này đạt được thành công, cả khu vực cũng cần tập trung hơn vào việc tăng cường quản lý các khu bảo tồn.
Tổng hợp từ WWF