Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đề xuất trữ lượng khoáng sản cần thống kê trữ lượng khoáng sản dự trữ tại từng địa phương, thời gian dự trữ khoáng sản tối thiểu 25 năm nhưng không quá 50 năm.
Tổng cục Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam vừa nghiên cứu, đề xuất bổ sung việc thống kê trữ lượng khoáng sản cần dự trữ cũng như thông tin nhu cầu triển khai các dự án trên mặt đầu tư trong khu vực dự trữ khoáng sản tại từng địa phương.
Thông tin trên được ông Đỗ Cảnh Dương, Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đưa ra trong ngày 9/4 tại cuộc họp trực tuyến xây dựng dự thảo Nghị định quản lý khoáng sản ở các khu vực dự trữ để phát triển các dự án trên mặt.
Thống kê trữ lượng cần dự trữ
Báo cáo tình hình triển khai công tác xây dựng dự thảo Nghị định trên, ông Dương cho biết trên cơ sở ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ xây dựng Nghị định.
Cụ thể, về Tờ trình Chính phủ, tiếp thu ý kiến thẩm định, Tổng cục đã bổ sung thống kê trữ lượng khoáng sản cần dự trữ tại từng địa phương; thông tin về nhu cầu triển khai các dự án trên mặt đầu tư trong khu vực dự trữ khoáng sản tại các địa phương như Bình Thuận, Ninh Thuân, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam…
Dự kiến về các mâu thuẫn, xung đột lợi ích có thể xảy ra, vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, sở hữu tài nguyên quốc gia ở khu vực dự trữ.
Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã rà soát, sắp xếp lại thành các chính sách như thời gian dự trữ khoáng sản quốc gia phải đảm bảo nhu cầu sử dụng khoáng sản cũng như phát triển các dự án trên mặt, nhằm phát huy sử dụng hiệu quả, tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội.
Đơn vị này cũng xác lập cơ sở pháp lý để đầu tư các dự án phát triển trên mặt trong khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia phải phù hợp các quy định của pháp luật về đầu tư, khoáng sản và pháp luật khác có liên quan.
Việc triển khai các dự án phát triển kinh tế-xã hội trên mặt phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ khoáng sản chưa khai thác nằm trong khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; việc điều chỉnh khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đang triển khai dự án phát triển trên mặt.
Ngoài ra, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cũng đề xuất quản lý nhà nước đối với các dự án phát triển trên mặt; quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trong diện tích khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia là trách nhiệm của các Bộ, ngành, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh có liên quan.
Thời gian dự trữ không quá 50 năm
Về vấn đề thời gian dự trữ khoáng sản quốc gia, đại diện lãnh đạo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cho biết đã rà soát, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn khi đề xuất thời gian dự trữ khoáng sản quốc gia. Trong đó có việc xem xét quy định thời gian tối tiểu đủ để phát triển các dự án kinh tế-xã hội trên khu vực dự trữ hoạt động có hiệu quả, phát huy tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Trên cơ sở phân tích khoa học và thực tiễn, cơ quan soạn thảo đề nghị lựa chọn phương án thời gian dự trữ khoáng sản tối thiểu 25 năm nhưng không quá 50 năm.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Quý Kiên khẳng định sự cần thiết phải xây dựng và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo quản lý, triển khai các dự án phát triển kinh tế trên mặt tại các khu vực có khoáng sản dự trữ quốc gia.
Ông Kiên cũng yêu cầu Nghị định phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong quản lý tài nguyên khoáng sản; quản lý các hoạt động liên quan đến bảo vệ khoáng sản dự trữ quốc gia, đồng thời phát huy tối đa nguồn tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản để phát triển kinh tế-xã hội.
Ngoài ra, các quy định trong các điều, khoản của Nghị định phải rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ; đảm bảo tính hợp lý, thống nhất giữa các điều, khoản của Nghị định, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với hoạt động thực tế, có tính khả thi.