Khu bảo tồn biển được xem là một công cụ quản lý hữu hiệu để bảo toàn tính bền vững của các vùng biển và các ngành kinh tế biển dựa vào nguồn lợi tự nhiên như nghề cá, du lịch và các dịch vụ đi kèm.
Trước tình hình nguồn lợi thủy sản, cơ sở tài nguyên cho du lịch biển, đảo ngày càng suy thoái, suy giảm, Chính phủ đã chủ trương phát triển kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo toàn nguồn vốn thiên nhiên biển. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, kinh tế biển xanh được xác định là nền tảng cho phát triển bền vững kinh tế biển nước ta đến năm 2030, trong đó mở rộng diện tích các khu bảo tồn biển trở thành nội dung quan trọng của kinh tế biển xanh.
Thực trạng quản lý
Giống như các nước đang phát triển, Việt Nam có lịch sử khá dài về quản lý các khu bảo tồn trên đất liền (khoảng từ những năm 1960), nhưng ý tưởng về thiết lập các khu bảo tồn biển chỉ mới bắt đầu từ khoảng năm 1980 trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu khoa học của Chương trình biển quốc gia và của các cơ quan nghiên cứu biển. Năm 1995, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch Hành động đa dạng sinh học quốc gia (BAP), trong đó đề cập đến bảo tồn biển và vùng ven biển. Theo tinh thần đó, trong các năm 1998-1999, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây đã phối hợp với Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia nghiên cứu xây dựng quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam, đưa ra danh mục gồm 15 khu bảo tồn biển.
Hệ thống các khu bảo tồn biển này chiếm diện tích bằng khoảng 0,24% diện tích vùng biển Việt Nam. Bao gồm gần 70.000 ha rạn san hô, 20.000 ha thảm cỏ biển và một phần rừng ngập mặn, phần lớn các bãi giống, bãi đẻ và nơi cư trú của các loài thủy sản kinh tế, gần 100 loài đặc hữu và nguy cấp được quản lý trong hệ thống các khu bảo tồn biển đến năm 2020.
Từ năm 2010, hệ thống 16 khu bảo tồn biển quốc gia chính thức được thiết lập thuộc vùng biển của 12 tỉnh ven biển, phân bố tập trung ở vùng biển ven bờ, xa nhất là khu bảo tồn biển Nam Yết thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa. Trong phạm vi vịnh Bắc Bộ, khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ nằm xa bờ nhất. Đến năm 2018, khoảng 10/16 khu bảo tồn biển trong quy hoạch đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND các tỉnh thành lập Ban Quản lý, bao gồm các khu bảo tồn biển: Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Côn Đảo và Phú Quốc.
Trong số đó có 3 khu (Cát Bà, Côn Đảo, Núi Chúa) được quản lý theo tinh thần của Nghị định 117/2010 đối với một Vườn Quốc gia. Về mặt hành chính, các khu bảo tồn biển đang được quản lý bởi nhiều cơ quan thẩm quyền khác nhau. Hai khu bảo tồn biển trực thuộc quản lý của UBND tỉnh hoặc thành phố (Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang); 3 khu trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh (Hòn Cau, Phú Quốc, Cồn Cỏ) và 5 khu là Vườn Quốc gia có vùng biển đi kèm trực thuộc UBND tỉnh (Núi Chúa, Côn Đảo, Lý Sơn, Cát Bà, Bạch Long Vĩ).
Lợi ích nhiều mặt
Phó Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhận định: Ở nước ta, biển, vùng ven biển và các hệ sinh thái cung cấp “cơ sở tài nguyên” cho phát triển kinh tế biển nói chung và hai ngành kinh tế mũi nhọn là nghề cá và du lịch biển nói riêng. Đây là hai lĩnh vực kinh tế gắn chặt với phúc lợi của người dân ven biển và trên các đảo, nhưng cũng đang đứng trước những khó khăn và thách thức. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ưu tiên và chú trọng hoạt động bảo tồn thiên nhiên biển và xem nó như một trong những giải pháp để phát triển bền vững kinh tế biển đất nước trong tương lai. Bảo tồn biển và phát triển kinh tế là hai mặt của một vấn đề trong phát triển bền vững hướng tới hình thành nền kinh tế biển xanh.
Các khu bảo tồn biển trong hệ thống quốc gia đầu tiên này phân bố đại diện cho toàn vùng biển, nếu được quản lý tốt sẽ tạo ra “cân bằng sinh thái” trong toàn vùng biển. Chỉ 3 năm quản lý tốt sẽ tạo ra hiệu ứng phục hồi trong khu bảo tồn biển, sau 5 năm sẽ xuất hiện “hiệu ứng tràn” phát tán nguồn giống và dinh dưỡng ra khu vực biển bên ngoài khu bảo tồn biển. Đó cũng chính là lợi ích đích thực và trực tiếp của việc thiết lập và quản lý hiệu quả khu bảo tồn biển đối với ngành thủy sản.
Vùng biển, ven biển và đảo nước ta là môi trường sống của các loài sinh vật thủy sinh, các loài chim nước, chim di cư, các loài động thực vật trên các đảo và cũng là môi trường sống lý tưởng của con người. Cùng với tính đa dạng của các yếu tố tự nhiên là sự giàu có và đa dạng về nguồn tài nguyên sinh vật biển với khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái biển-ven biển điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau.
Các hệ sinh thái biển-ven biển đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy dưỡng đời sống sinh vật, cung cấp nguồn lợi hải sản, điều hòa thời tiết khí hậu và là “cơ sở hạ tầng” tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu. Đặc biệt, các hệ sinh thái này đã tạo nên tiềm năng bảo tồn thiên nhiên biển rất to lớn và cung cấp các dịch vụ rất quan trọng để phát triển các ngành, nghề kinh tế biển theo hướng bền vững như nghề cá và du lịch biển… Tuy vậy, các hệ sinh thái này đang đứng trước các nguy cơ đe dọa và rủi ro ngày càng tăng từ các hoạt động phát triển của con người và các quá trình tự nhiên. Chính vì thế, hệ thống các khu bảo tồn biển được thành lập không chỉ góp phần bảo đảm cân bằng sinh thái vùng biển, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm chức năng điều hoà môi trường, nguồn giống và nguồn lợi hải sản mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế lâu dài, đối với nghiên cứu khoa học, giáo dục cộng đồng, giải trí và du lịch sinh thái.
Việc thiết lập hệ thống khu bảo tồn biển còn có ý nghĩa pháp lý to lớn, góp thêm cơ sở và cung cấp các công cụ hành chính và pháp luật trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích của nước ta ở Biển Đông, theo quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 1982. Các khu bảo tồn biển còn là yếu tố quan trọng của vấn đề môi trường xuyên biên giới trong vùng Biển Đông mà các nước trong khu vực đang quan tâm. Ngoài ra, thành lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển trong vùng biển nước ta còn góp phần thực hiện các cam kết quốc tế ở Johanesburg (2002) về các Mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó có khu bảo tồn biển, Paris (2015) về các Mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có Mục tiêu 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên biển và đại dương.
Cơ hội mở rộng hệ thống
Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam Tạ Đình Thi cho biết: Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định mục tiêu tổng quát là tiếp tục “đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển”.
Chiến lược cũng xác định các mục tiêu cụ thể, trong đó có các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường – là ba trụ cột chính của phát triển bền vững. Các ngành kinh tế biển phải phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. Về mặt môi trường: ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương. Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000. Có biện pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn, xói lở bờ biển.
Theo Phó Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam yêu cầu lấy phát triển kinh tế biển xanh làm nền tảng để phát triển bền vững kinh tế biển. Trong khi về bản chất, kinh tế biển xanh lấy việc bảo toàn “nguồn vốn tự nhiên biển”, bao gồm các khu bảo tồn biển với các hệ sinh thái tiêu biểu cần bảo vệ là một nguyên tắc. Do đó, đây chính là cơ hội cho việc phát triển, mở rộng mạng lưới các khu bảo tồn biển ở nước ta trong thời gian tới.