Theo quy luật chung vào những năm El Nino toàn khu vực Đông Nam Á đều ít mưa hơn so với bình thường do “ổ đối lưu gây mưa bị dịch về phía Đông” nhưng tác động mỗi nơi một khác, không hoàn toàn đồng nhất.
Năm nay, hạn hán lịch sử diễn ra ở hầu khắp các nước Đông Nam Á do El Nino, mà ngay ở nước ta, đặc biệt là hạn ở Miền Nam và Miền Trung.
Philippines và Thái Lan dự báo sớm hơn Việt Nam về hiện tượng El Nino xuất hiện từ cuối năm ngoái, tòan khu vực ít mưa, cộng với việc trữ nước ở các hồ thủy điện thượng lưu đã ảnh hưởng lớn đến nguồn nước các nước trong lưu vực sông Mê Công.
Tuy nhiên, cả Philippine và Indonesia cũng như nhiều nước phát triển, đều không làm dự báo ENSO (El Nino, La Nina, None ENSO hay Neutral) mà họ chỉ dựa vào những thông tin dự báo toàn cầu của một số trung tâm lớn trên thế giới như NOAA/NCEP (Mỹ) hay ECMWF (châu Âu) hoặc JMA (Nhật)… Trên cơ sở đó họ sẽ đưa ra những nhận định khác nhau về ảnh hưởng của ENSO đến các vùng của họ hoặc có thể một vài diễn giải (interpretation) từ những kinh nghiệm của họ.
Việt Nam cũng chưa có điều kiện để làm bài toán dự báo ENSO mà chủ yếu dựa vào NCEP/NOAA của Mỹ. Về ảnh hưởng của El Nino đến Việt Nam, thì chủ yếu Nam Bộ và Tây Nguyên và sau đó đến Nam Trung Bộ rồi Bắc Trung Bộ là được thể hiện rõ hơn cả.
Hạn ở miền Trung trong thời gian qua và hiện tại chủ yếu liên quan đến nguyên nhân trực tiếp là nắng nóng quá lâu (nền nhiệt cao) và độ ẩm thấp (do gió mùa tây nam vượt dãy Trường Sơn ở Trung Bộ) kèm theo không mưa đã dẫn đến hệ quả bốc hơi nhiều làm hao hụt trầm trọng độ ẩm đất, không có nước bổ cập cho nước ngầm trong khi người dân vẫn phải khai thác nước để sử dụng.
Diễn biến mưa trên lưu vực sông Mê Công
Mùa khô năm 2019 tổng lượng mưa trong mùa khô trên các trạm khác nhau trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm khoảng 55%.
Trong khi đó mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5, nhưng năm nay đến muộn, làm lượng mưa tháng 7 thiếu hụt lên tới 65%, đặc biệt khu vực thượng nguồn Mê Công (bao gồm cả phía Trung Quốc), mưa giảm nhiều và chỉ đạt trung bình 20% so với nhiều năm.
Kết hợp với việc tích nước trong mùa lũ của hệ thống đập Trung Quốc và trên dòng nhánh sông Mê Công gây ra dòng chảy đầu mùa lũ tới Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thấp.
Tình hình dòng chảy sông Mê Công
Từ đầu mùa lũ năm 2019 đến nay, Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối mặt với một mùa lũ rất thấp:
- Mực nước trên sông Mê Công tại Tân Châu và Châu Đốc thấp hơn trung bình nhiều năm từ 108-165cm.
- Lưu lượng tháng 6-7 tại Tân Châu và Châu Đốc chỉ đạt ~30% so với Trung bình tháng 6-7 nhiều năm.
- Hầu hết mực nước các kênh mương trong vùng đều sụt giảm nghiêm trọng, do không được tiếp nước từ các sông chính.
- Trên toàn vùng không có mưa, nắng nhiều, lượng bốc hơn cao.
Do các đập Trung Quốc xả rất hạn chế từ cuối tháng 6 đến tháng 7, do vậy dòng chảy ở Chieng Sen trong đầu mùa lũ 2019 về lưu lượng ở mức thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm ~ 1800m3/s, và thấp hơn giá trị kiệt lịch sử trong tháng 7 khoảng 400 m3/s. Đặc biệt trong tháng 7, dòng chảy tại Chieng Sen chỉ đạt 2230 m3/s ~ tương ứng với 44% dòng chảy trung bình nhiều năm (thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm ~ 3200m3/s).
Mực nước ở Chieng Sen trong đầu mùa lũ 2019 ở mức thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm khoảng 1,6m. Đặc biệt trong sau ngày 15/7 mực nước ở Chieng Sen thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 3.0-3.6m, và mực nước thấp nhất trong tháng 7/2019 thấp hơn mực trị kiệt lịch sử trong ngày tương ứng khoảng 1,4m.
Mực nước ở Viên Chăn trong đầu mùa lũ 2019 ở mức thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm khoảng 2,6m. Đặc biệt trong sau ngày 15/7, mực nước ở Viên Chăn thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 5,0 đến 6,1m, và mực nước thấp nhất trong tháng 7/2019 thấp hơn mực nước kiệt lịch sử trong ngày tương ứng khoảng 2,2m.
Mực nước tại Kratie, trạm đầu nguồn châu thổ sông Mê Công chỉ đạt 9,64m (28/7) thấp hơn so với trung bình nhiều năm là 6,78 m và thấp hơn so với cùng kì năm 2018 là 11,13m. Về lưu lượng ở thời điểm hiện nay tại Kratie là 7.090 m3/s, so với cùng kỳ trung bình nhiều năm vào khoảng 23.000 m3/s và lưu lượng cùng kỳ năm 2018 đã đạt 42.000 m3/s.
Mặt khác, Biển hồ Tonle Sap ở Campuchia được xem là có tác dụng như hồ điều tiết rất quan trọng cả mùa lũ và mùa kiệt thì mực nước hiện tại thấp kỉ lục, tại PrekDam chỉ đạt 1,38m, dung tích biển hồ thấp hơn trung bình nhiều năm cùng thời kì lên đến 20 tỷ m3.
Xin lưu ý: Hiện nay, tôi chưa thấy có cơ quan nào công bố chạy Model 2018-2019 thủy lực để kết luận về lưu lượng, cho nên các số liệu về lưu lượng đưa ra trong bài viết này chỉ là ước tính.
Chế độ dòng chảy vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Mực nước ở Tân Châu Đốc trong đầu mùa lũ 2019 ở mức thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm khoảng 1,2m. Đặc biệt trong sau ngày 15/7, mực nước ở Tân Châu thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 0,8-2,3m, và mực nước thấp nhất trong tháng 7/2019 thấp hơn mực nước kiệt lịch sử trong ngày tương ứng khoảng 2,3m.
Tất cả các yếu tố nói trên đã cộng hưởng tạo nên đợt hạn hán khốc liệt đang diễn ra diện rộng trên toàn bộ lưu vực sông Mê Công, trong đó có ĐBSCL.
Giải pháp
Việc chủ động ứng phó không thể thiếu thông tin dự báo mùa (Seasonal Forecasting) và nội mùa (sub-seasonal forecasting). Đáng tiếc là vấn đề này ở Việt Nam đang quá yếu cần được quan tâm nâng cao chất lượng về mặt khoa học công nghệ dự báo.
Về góc độ hợp tác khai thác lưu vực, trận hạn hán năm 2019 cần phải xem xét tình trạng hiện tại với những thay đổi trong các thập kỷ vừa qua, nhất là các công trình đã được xây dựng và các công trình mới phải hoạt động không dựa vào lợi thế của các công trình đã được xây dựng.
Ví dụ việc trữ nước cho Xayaburi không được quyền lấy nước các hồ thượng lưu mà làm nguy hại cho việc sản xuất hạ lưu (dựa vào kinh nghiệm của những năm gần đây). Nói cách khác MRCS có bổn phận theo dõi việc vận hành các công trình này.
Theo phân tích sơ khởi (xem Flow Record 2019 trích từ website của MRCS: http://ffw.mrcMê Công.org/report_dry.php), MRCS đã không phát hiện được việc trữ nước của Xayaburi, cũng như những giai đoạn các hồ thượng lưu giảm nước, nhất là trong giai đoạn cuối tháng 1 và đầu tháng 2 làm cho mực nước ở Chiang Khan và Vientiane sụt mất 3 m nước. Đây là yếu điểm của MRCS cần sửa chữa, khắc phục.
Mực nước thấp kỷ lục 2019 cho thấy mặc dù bộ qui tắc giám sát thủy văn dòng chảy mùa kiệt đã được xây dựng nhưng vẫn còn bất cập. Phải chăng PMFM chỉ là công cụ giúp các quốc gia nhận thông tin, chưa có chức năng xử lý!? Về quy chế, hiện nay PMFM đã thông qua (cả mùa khô và mùa lũ) là giám sát dòng chảy trên sông. Tuy nhiên, hiện tượng hạn hán cả lưu vực sông Mê Công đang phải đương đầu do cả nguyên nhân thiên tai và nhân tai. Do đó, việc phối hợp giữa các quốc gia ven sông cùng chung tay xử lý và đối phó với bài tóan an ninh nguồn nước là vấn đề rất cần thiết, đảm bảo rằng chế độ thủy văn dòng chảy không bị tác động quá lớn làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái bền vững và các tập quán, văn hóa của người dân trên lưu vực..
Phân tích tình hình hiện nay, thấy xu thế gió mùa Tây Nam đang rút dần từ thượng lưu sông Mê Công xuống hạ lưu nên hình thế thời tiết gây mưa cho khu vực trung Lào (nơi chủ yếu cung cấp nguồn nước cho hạ lưu vực sông Mê Công) từ nay đến tháng 11 chủ yếu trông chờ vào lượng mưa nhờ bão và áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào miền Trung và Tây Nguyên của Việt Nam.
Khi có nguồn nước, ở ĐBSCL phải tranh thủ tích trữ nước trên các kênh rạch, ao vv…Cơ cấu sản xuất phải bố trí lại để thích ứng với điều kiện thời tiết. Nhà nước cần có cơ chế chính sách chủ động để ứng phó với thiên tai năm 2020 đặc biệt khan hiếm nguồn nước.
Lời kết
Trong tương lai, biến đổi khí hậu làm cho lượng mưa các tháng biến động nhiều hơn, nếu Thái Lan chuyển nước sông Mê Công ra ngoài lưu vực, phía Campuchia nếu xây dựng công trình kiểm soát nguồn nước ở Tolesap và thủy điện Sambo, lại gặp đúng thời kỳ El Nino thì tình hình nguồn nước ở ĐBSCL còn nguy cấp hơn nhiều.
Bài toán quy hoạch tổng thể sử dụng nguồn nước một cách khôn ngoan, và hiệu quả theo nguyên tắc quản lý lưu vực sông, đặc biệt dựa trên tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ở ĐBSCL càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.