Bộ TN&MT vừa gửi công văn số 3680/BTNMT-TCMT về việc công bố Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018 tới các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ ngành, các tổ chức chính trị – xã hội , Tổ chức Chương trình Quốc tế , Trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Công văn nêu rõ, Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018 đánh giá tổng quan về hiện trạng môi trường nước các lưu vực sông trong giai đoạn 2014 – 2018, phân tích những kết quả đã đạt được, cũng như những khó khăn thách thức đã và đang đặt ra đối với công tác quản lý môi trường nước, từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm nước, quản lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường nước hiệu quả trong thời gian tiếp theo. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, thiết thực đối với công tác hoạch định, xây dựng, quản lý và thực hiện chính sách về công tác bảo vệ môi trường đối với các ngành, lĩnh vực, địa phương.
Đánh giá môi trường nước trên 12 lưu vực sông
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018, chuyên đề “Môi trường nước các lưu vực sông” đã đánh giá tổng thể, toàn diện môi trường nước trên 7 LVS lớn, 3 LVS liên tỉnh độc lập và 2 LVS đang nhận được sự quan tâm. Tập trung phân tích các nội dung liên quan đến nguồn gây ô nhiễm, đặc trưng nước thải của các nguồn thải; hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường nước trên các LVS; công tác quản lý, BVMT nước trên các LVS,… qua đó nhận diện các thách thức đối với công tác BVMT nước các LVS và đề xuất các giải pháp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm môi trường nước trong thời gian tới.
Các số liệu trong báo cáo cho thấy, Việt Nam là quốc gia có hệ thống sông ngòi dày đặc với tổng lượng dòng chảy nước mặt hàng năm lên đến 830-840 tỷ m3. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên nước của nước ta chỉ ở mức trung bình trên thế giới. Tổng lượng nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm khoảng 63%. Hiện các lưu vực sông đang tiếp nhận tiếp nhận chất thải từ các nguồn nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và chất thải rắn. Trong tổng lượng nước thải phát sinh ra các lưu vực, lượng nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Bên cạnh các nguồn nước thải kể trên, một lượng CTR không nhỏ không được kiểm soát, đổ bừa bãi không những gây ô nhiễm các dòng kênh, sông, có nơi làm tắc nghẽn dòng chảy. Ước tính tỷ lệ thu gom xử lý CTR sinh hoạt đô thị đạt khoảng 86%, tại khu vực nông thôn, tỷ lệ này chỉ đạt 40-55% tùy theo từng khu vực.
Như vậy, vẫn còn một lượng khá lớn CTR chưa được xử lý theo quy định, chưa kể tới lượng CTR chưa được thu gom, một phần không nhỏ thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch. Cả nước có khoảng 660 bãi chôn lấp CTR sinh hoạt, trong đó chỉ có 203 bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh lại là nguy cơ làm ô nhiễm các tầng chứa nước, dẫn đến suy giảm các nguồn nước trong các LVS.
Trong giai đoạn 2014 – 2018, vẫn còn tồn tại những khu vực thuộc một số LVS vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, là điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước trong thời gian dài vẫn chưa được khắc phục như LVS Nhuệ – Đáy, các sông nội thành Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, sông Ngũ Huyện Khê, khu vực thượng nguồn sông Mã.
Có những khu vực sau khi được khắc phục cải tạo lại xảy ra tình trạng tái ô nhiễm. Bên cạnh một số LVS vẫn duy trì chất lượng nước ở mức khá tốt như LVS Hồng – Thái Bình, Mê Công, thậm chí có những LVS chất lượng nước được cải thiện đáng kể qua từng năm (LVS Vu Gia – Thu Bồn, Trà Bồng – Trà Khúc, lưu vực hệ thống sông Đồng Nai.
Báo cáo chỉ ra những thách thức đối với môi trường nước các LVS ở nước ta . Đó là vẫn tồn tại những điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước, sự cố gây ô nhiễm môi trường nước mặt; nguồn lực chưa đáp ứng được các yêu cầu về quản lý tổng hợp LVS bao gồm các vấn đề quản lý liên ngành, liên vùng, kiểm soát nguồn thải, ứng phó, xử lý đối với các sự cố ô nhiễm môi trường nước; biến đổi khí hậu và các vấn đề môi trường xuyên biên giới đặt ra các yêu cầu ngày càng cao đối với công tác BVMT nước các LVS.
Nhóm giải pháp
Để từng bước giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường nước các LVS cũng như những thách thức đặt ra đối với công tác quản lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường nước, Báo cáo đã đề xuất các nhóm giải pháp, bao gồm nhóm các giải pháp tổng thể để bảo vệ và quản lý tổng hợp môi trường nước, nhóm các giải pháp cụ thể cho các LVS theo vùng địa lý và nhóm giải pháp ưu tiên thực hiện để khắc phục và xử lý triệt để các điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước, giám sát các vấn đề môi trường xuyên biên giới và ứng phó hiệu quả diễn biến BĐKH để giảm thiểu tác động tới môi trường nước các lưu vực sông.
Trên cơ sở các phân tích, đánh giá, những chỉ đạo, định hướng của Quốc hội và Chính ph, Báo cáo đã nêu rõ một số kiến nghị đối với Quốc hội và Chính phủ và các Bộ ngành, địa phương. Cụ thể đối với Quốc hội và Chính phủ, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản, chính sách pháp luật liên quan đến môi trường nói chung, đến môi trường nước LVS nói riêng.
Xem xét, rà soát sửa đổi Luật Tài nguyên nước 2012; kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương. Sớm xem xét và phê duyệt lại việc thành lập các Ủy ban LVS để giải quyết các vấn đề về quản lý môi trường nước liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; tăng cường giám sát việc triển khai thực thi các Luật, văn bản liên quan đến bảo vệ môi trường nói chung, môi trường nước nói riêng. Giám sát các Dự án, Chương trình có quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, đặc biệt ở các khu vực nhạy cảm. Đồng thời đẩy mạnh việc chỉ đạo, giải quyết các vấn đề bức xúc, ngăn chặn việc gia tăng ô nhiễm môi trường nước, đảm bảo an ninh nguồn nước và vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách thu hút, huy động sự tham gia của cộng đồng, trong đó, ưu tiên huy động sự tham gia của cộng đồng đối với các dự án, chương trình xử lý, khắc phục, cải thiện ô nhiễm môi trường nước.
Đối với các Bộ ngành, địa phương, cần tiếp tục xây dựng và trình Chính phủ tổ chức thực hiện các Chương trình, Dự án nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về môi trường nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ/ngành, địa phương; đẩy mạnh triển khai thực hiện các quy hoạch bảo vệ môi trường LVS, thống nhất quy hoạch sử dụng nước giữa các ngành; lựa chọn và áp dụng các công nghệ xử lý nước thải tiên tiến, phù hợp với điều kiện nước ta.
Tăng cường thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường nước, các hoạt động kiểm soát ô nhiễm, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nước, nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ ô nhiễm, sự cố môi trường.
Triển khai hiệu quả các chương trình, dự án, nhiệm vụ nhằm khắc phục, xử lý triệt để các điểm nóng về ô nhiễm môi trường, trong đó có môi trường nước.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý nhà nước của từng cấp, từng ngành, vừa đáp ứng chủ trương về tinh giản biên chế nhưng vẫn đảm bảo nguồn nhân lực quản lý môi trường, trong đó có vấn đề quản lý môi trường nước.