Cũng như nhiều nơi trên thế giới, Việt Nam hiện có rất nhiều khu rừng truyền thống, gồm: rừng thiêng, rừng nghĩa địa, rừng bảo vệ nguồn nước, rừng chắn sóng/chắn cát, rừng khai thác chung, rừng bảo tồn loài động – thực vật… Các khu rừng đều được cộng đồng tự nguyện quản lý, bảo vệ và sử dụng dựa trên vốn tri thức, văn hóa và luật tục. Đây cũng là nơi thực hành văn hóa, tín ngưỡng của hầu hết cộng đồng các dân tộc thiểu số và cư dân bản địa. Đặc biệt, do được quản lý bằng các thiết chế cộng đồng chặt chẽ và lâu đời nên các khu rừng truyền thống đa phần đều được gìn giữ nguyên vẹn, thậm chí, nhiều khu có giá trị đa dạng sinh học rất cao. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên trong các khu rừng cũng đặc biệt nghiêm ngặt nên dù sở hữu diện tích lớn hay nhỏ thì các khu rừng cũng đã và đang đóng góp rất lớn trong việc duy trì sự toàn vẹn của hệ sinh thái rừng cũng như góp phần thực hiện các mục tiêu về bảo tồn đa dạng sinh học (IUCN, 2010) . Đây cũng là lý do khiến nhiều ý kiến cho rằng cần nâng cấp, thể chế hóa các khu rừng truyền thống thành một dạng thức bảo tồn đặc biệt – khu bảo tồn cấp cộng đồng, do cộng đồng sở hữu, quản lý và bảo vệ.
Thiết chế quản trị rừng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương
Theo số liệu hiện trạng rừng Việt Nam năm 2017 do Bộ NN&PTNT công bố, cộng đồng hiện đang là một trong các chủ thể được giao quản lý rừng. Hiện nay, diện tích rừng do cộng đồng quản lý, bảo vệ là 1.128.096 ha rừng, trong đó có khoảng 626.122 ha đang được cộng đồng quản lý, sử dụng theo phương thức truyền thống (Hội đồng dân tộc Quốc hội, 2017).
Một nghiên cứu khác của PanNature (2017) cũng chỉ ra rằng hiện có 1.277.966 ha rừng đang được giao cho 7.278 cộng đồng quản lý, sử dụng (Biểu đồ 1)[1]. Mặc dù nghiên cứu không thống kê số liệu về diện tích rừng truyền thống của cộng đồng nhưng sự tồn tại của các khu rừng này đều được ghi nhận ở cả 12 tỉnh thuộc phạm vi nghiên cứu, đặc biệt là tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Tính riêng huyện Hoàng Su Phì, Hà Giang có đến 71 khu rừng truyền thống với tổng diện tích 105,132 ha (Chi cục KL Hà Giang, 2017). Diện tích của các khu rừng truyền thống có sự chênh lệch khá nhiều, từ vài nghìn mét vuông tới vài trăm ha.
Kết quả khảo sát cho thấy các khu rừng truyền thống thuộc cả ba loại hình rừng (sản xuất, phòng hộ và đặc dụng) nhưng chủ yếu được quy hoạch trên đất RPH. Cụ thể trong số 13 điểm nghiên cứu thì có 9 khu thuộc quy hoạch đất RPH, 3 khu thuộc rừng sản xuất và 01 khu thuộc quy hoạch RĐD. Riêng tại Sơn La, nhóm nghiên cứu ghi nhận có 35 cộng đồng được giao quản lý 14.644,51 ha đất rừng có đất RĐD, trong đó có 8 cộng đồng được giao quản lý 1.955,21 ha đất rừng quy hoạch hoàn toàn cho đặc dụng (Chi cục Kiểm lâm Sơn La, 2018).
Về thiết chế quản trị, bên cạnh hệ thống quản trị của nhà nước, cộng đồng địa phương vẫn duy trì một thiết chế quản trị tuyền thống do những người có uy tín trong cộng đồng quyết định như: già làng, hội đồng già làng, thầy mo/thầy cúng. Tuy nhiên, việc đưa ra quyết định liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên rừng lại rất minh bạch, công khai, có sự tham gia đầy đủ của đại diện các hộ và thành viên trong cộng đồng (Vũ Trường Giang, 2011). Đơn cử như ở Bản Chù Lìn – huyện Tam Đường- Lai Châu, việc lựa chọn các thành viên và người đứng đầu hội đồng già làng được thực hiện trước dịp lễ cúng rừng hàng năm và thông qua một cuộc bầu chọn của những người có uy tín trong mỗi dòng họ. Thông thường, mỗi một cộng đồng đều có bản quy tắc ứng xử đối với từng khu rừng truyền thống, trong đó quy định rất rõ hành vi bị cấm hoặc được phép sử dụng, khai thác tài nguyên rừng. Một số nơi còn quy định một vài thời điểm nhất định trong năm được vào rừng. Chẳng hạn như tại thôn Mang Sông, xã Ba Tầng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, ngoài ngày mở của rừng, các ngày còn lại không ai trong bản được phép bước chân vào rừng thiêng.
Đáng chú ý là mặc dù các những quy tắc của cộng đồng không chi tiết hay có tính chất hệ thống, khoa học như quy định của nhà nước (Hoàng Văn Quynh, 2015), song việc tuân thủ lại rất chặt chẽ, nghiêm ngặt. Ngoài việc phải chịu các hình thức trách phạt dưới dạng chỉ trích hay phê bình, các đối tượng vi phạm còn phải làm lễ cúng thần, cúng giàng… để cộng đồng tổ chức lễ tạ lỗi với các vị thần (sông, suối, rừng, cây, đá…). Những hình phạt về mặt vật chất và tinh thần đều có tính răn đe rất lớn, buộc cách thành viên của cộng đồng phải tôn trọng và tuân thủ.
Chính những thực hành tín ngưỡng một cách tự nguyện và tâm phục như vậy mà rừng truyền thống được bảo vệ dường như còn nguyên vẹn, mang lại lợi ích cho công tác bảo vệ rừng tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học theo đúng như mục tiêu của nhà nước đã đặt ra (IUCN, 2010). Thậm chí có những khu rừng nằm giữa cánh đồng, nương cà phê hay ngay bên đường quốc lộ như Dền Sáng (Lào Cai); Xăng Lẻ, Hóc (Nghệ An); Quảng Xuân (Quảng Bình); Cư H’lăm (Đắk Lắk)… cũng vẫn được bảo vệ một cách nguyên vẹn với nhiều loài gỗ quý, cây thuốc và một số loài động vật như chim, bò sát, linh trưởng. Đáng chú ý là có những cộng đồng còn từ chối và ngăn chặn thành công một số dự án phát triển khu du lịch và khai thác gỗ không theo quy hoạch, có khả năng làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng. Một vài cộng đồng tự đóng góp lương thực để tổ chức tổ bảo vệ rừng như ở Quảng Xuân (Quảng Bình) gom góp tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để xây dựng hàng rào bảo vệ khu rừng thiêng như ở Dền Sáng (Lào Cai).
Cở sở pháp lý và ý nghĩa của việc thể chế hóa rừng truyền thống thành loại hình bảo tồn cấp cộng đồng
Theo IUCN (2008), có bốn loại hình khu bảo vệ trên thế giới, gồm: (A) Khu bảo vệ do nhà nước quản trị, (B) Khu bảo vệ được quản trị bởi nhiều bên có quyền lợi và liên quan, (C) Khu bảo vệ do tư nhân hoặc tổ chức quản trị và (D) Khu bảo vệ do người bản địa/đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương quản trị (Dudley N, 2008). Ứng với cách phân loại này thì các khu rừng truyền thống ở Việt Nam thuộc vào nhóm D hay còn được gọi là Khu bảo tồn của người bản địa và cộng đồng địa phương (ICCA/ Khu bảo tồn cấp cộng đồng. Đây là những khu vực chứa đựng tài nguyên được cộng đồng và người dân tộc thiểu số tự nguyện quản lý thông qua thực hành tính ngưỡng, văn hoá, và kinh tế xã hội một cách có hiệu quả. Các khu rừng này được xác định bởi ba tiêu chí/đặc trưng sau: (i) một khu vực tài nguyên có quan hệ mật thiết với cộng đồng địa phương (văn hóa, tín ngưỡng và sinh kế); (ii) cộng đồng là chủ thể quyết định trong việc quản trị khu vực tài nguyên; và (iii) các quyết định quản trị của cộng đồng (dù ban đầu không phải là vì mục tiêu bảo tồn) có lợi cho việc bảo tồn đa dạng sinh học (Borrini-Feyerabend, G. et al., 2004).
Trên phạm vi toàn cầu, khu bảo tồn cấp cộng đồng đã cho thấy vai trò to lớn của nó trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng động địa phương. Nội hàm của việc thừa nhận ICCA cấp toàn cầu đã được đưa vào Điều 8 j (quy định về người bản địa và kiến thức địa phương) và Điều 10 c (quy định về việc sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học theo luật tục) của Công ước Đa dạng sinh học (CBD) năm 1992. Trong khuôn khổ thực thi Công ước này, các nội dung liên quan đến ICCA được bao hàm cụ thể trong Mục tiêu Aichi 11 (về đảm bảo diện tích khu bảo tồn trên thế giới đến năm 2020 là 17% diện tích đất liền và vùng nước nội địa; 10% diện tích đới bờ và biển) và Mục tiêu Aichi 18 (về tăng cường thực hiện quy hoạch có sự tham gia, quản lý tri thức và tôn trọng kiến thức truyền thống, thực hành tốt của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương).
Cũng trong khuôn khổ công ước CBD, ICCA được coi là một trong các biện pháp bảo tồn dựa trên khu vực tài nguyên có hiệu quả khác (OECM) ngoài các khu bảo vệ được nhà nước chính thức thành lập. Trong Đại hội thành viên của IUCN 2012, Ban Thư ký cũng đưa ra chính sách kêu gọi các thành viên “thừa nhận và hỗ trợ các ICCA nằm trong ranh giới diện tích của các khu bảo vệ và loại hình do nhà nước thành lập” như các khu ramsar, khu di sản thế giới và các khu rừng quốc gia[3]. Đến kỳ Đại hội IUCN năm 2016 tại Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ, chính sách mới về việc “Thừa nhận và tôn trọng vùng lãnh thổ và khu vực bảo tồn của người bản địa và cộng đồng địa phương nằm chồng lấn với các khu bảo vệ do nhà nước thành lập” đã chính thức được thông qua bằng Nghị quyết Đại hội bảo tồn thế giới lần thứ 29. Trong đó, IUCN kêu gọi các thành viên cần thừa nhận các khu ICCA một cách thích đáng và thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến các chính sách của IUCN, CBD, Mục tiêu Aichi và Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền của người bản địa (UNDRIP 2008)” (Stan Steven, 2016).
Thực hiện theo đúng các nội dung đã cam kết, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang tiến hành thúc đẩy việc thể chế hóa các khu bảo vệ ICCA. Đến năm 2016, hệ thống dữ liệu đăng ký về ICCA của Trung tâm giám sát bảo tồn của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP-WCMC) đã ghi nhận 1.214 khu từ 17 quốc gia, chiếm 0,6% tổng số khu vực được bảo vệ trên toàn thế giới (UNEP-WCMC & IUCN, 2016). Tuy nhiên, số liệu thực tế chưa đăng ký cao hơn nhiều khi diện tích đất rừng do người dân tộc thiểu số và công đồng địa phương đang sở hữu hợp pháp tại các khu vực nhiệt đới thuộc Nam Mỹ, châu Phi và châu Á lên tới 11% tổng diện tích đất rừng toàn cầu (Sobrevila, C, 2008). Đi đầu trong việc thừa nhận và thể chế hóa ICCA trong phạm vi quốc gia có thể kể tới là Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Đài Loan, Philipines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Namibia, Úc, Canada, Bolovia và Madagascar.
Tại Việt Nam, Luật Lâm nghiệp sửa đổi năm 2017 cũng đánh dấu một mốc quan trọng trong việc thừa nhận ICCA. Lần đầu tiên “cộng đồng” được thừa nhận là một trong bảy chủ rừng chính thức (Điều 8). Rừng tín ngưỡng được đưa vào phân hạng rừng bảo vệ cảnh quan thuộc hệ thống RĐD và rừng bảo vệ nguồn nước của cộng đồng dân cư, rừng chắn gió, chắn cát bay, chống sóng biển được liệt vào hệ thống RPH [3]. Luật Thuỷ sản năm 2017 cũng thừa nhận phương thức đồng quản lý giữa Nhà nước và cộng đồng dân cư có liên quan[4]. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các cộng đồng địa phương đã và đang quản lý các khu ICCA nằm trong diện tích chồng lấn với các khu bảo vệ khác như: RĐD, RPH, khu ramsar, khu bảo tồn biển.
Thời gian tới, nội hàm về ICCA cũng có thể được xem xét để đưa vào Luật Đa dạng sinh học sửa đổi với các nội dung gắn liền với vấn đề tiếp cận nguồn gen, chia sẻ lợi ích, phát huy tri thức truyền thống trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học.
Có thể nói việc thừa nhận, tôn trọng thúc đẩy công đồng quản lý rừng truyền thống hay các khu ICCA sẽ mang lại rất nhiều lợi ích, trong đó có thể kể tới bốn lợi ích quan trọng sau:
- (i) Góp phần hoàn thiện các mục tiêu và cam kết quốc tế, cụ thể là Mục tiêu Aichi 11 và Mục tiêu Aichi 18 về đảm bảo diện tích khu bảo tồn, thực thi Công ước Đa dạng sinh học và hệ thống đảm bảo an toàn môi trường, xã hội trong Sáng kiến giảm phát thải từ suy thái rừng và mất rừng (REDD+ Safeguards) cũng như Tuyên bố của Liên Hợp quốc về Quyền của người bản địa (UNDRIP) cùng một số cam kết liên quan khác mà Việt Nam tham gia.
- (ii) Đóng góp cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược nhằm quản lý hệ thống RĐD, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa. Hiện tổng diện tích RĐD của Việt Nam mới chiếm 6,47% diện tích đất liền với tổng diện tích 2.141.324 ha so với mục tiêu 9% tổng diện tích đất liền đến năm 2020, điều này cũng có nghĩa là Việt Nam cần bổ sung khoảng 837.333 ha RĐD.
- (iii) Thừa nhận rừng truyền thống như các khu RĐD và RPH sẽ đóng góp phục hồi và phát triển rừng tự nhiên trong khi không làm tăng thêm gánh nặng ngân sách do Nhà nước không tốn chi phí duy trì bộ máy quản lý nhờ vào thiết chế tự quản, và luật tục chặt chẽ của cộng đồng dân cư.
- (iv) Việc thừa nhận ICCA giúp bảo tồn và gìn giữ văn hóa truyền thống và thiết chế cộng đồng. Đây là một trong những khía cạnh ít được quan tâm trong chính sách nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học và các chính sách phát triển đồng bào dân tộc thiểu số nhưng đã dần được thừa nhận rộng rãi. Điều này thực sự đóng góp cho công bằng xã hội, đặc biệt là thừa nhận quyền và lợi ích chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số như nhiều chính sách của nhà nước đã ban hành.
Khía cạnh chính sách cần quan tâm trong thể chế hoá rừng truyền thống tại Việt Nam
Với những ích lợi nêu trên, cần thúc đẩy thể chế hóa các khu rừng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương, trong đó, tập trung vào ba khía cạnh về mặt nhận thức và chính sách sau đây:
Thứ nhất, nên coi đối tượng rừng truyền thống là một loại hình khu bảo tồn cấp cộng đồng thống nhất dù đó là rừng cấm, rừng thiêng, rừng bảo bệ nguồn nước hay là rừng khai thác chung của các cộng đồng. Tất cả các loại hình rừng truyền thống này đều lưu giữ những giá trị văn hóa, tín ngưỡng và được cộng đồng quản lý, bảo vệ một cách bền vững, hiệu quả qua nhiều thế hệ. Những thực hành tốt thông qua thiết chế truyền thống và tuân thủ luật tục một cách tự nguyện có giá trị ngang với quy chế quản lý các khu RĐD và RPH do Nhà nước nước quy định.
Thứ hai, quyền sử dụng/hưởng dụng rừng truyền thống cần được đảm bảo để gắn trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ không gian tín ngưỡng và sinh kế. Các hoạt động, chương trình dự án có ý nghĩa về mặt an ninh quốc phòng, đặc biệt là các dự án phát triển kinh tế có ảnh hưởng tới không gian rừng truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương cần phải thực hiện đánh giá tác động môi trường và xã hội một cách cẩn trọng, đồng thời phải nhận được sự đồng thuận tuyệt đối của cộng đồng trước khi thực hiện, tránh những xung đột có thể xảy ra.
Cuối cùng, cần tôn trọng thiết chế, văn hóa truyền thống và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số và cộng đồng địa phương trong quản trị rừng truyền thống. Văn bản dưới luật cần quy định cụ thể về thể chế, quy chế, thủ tục đăng ký và quản lý đối với đối tượng rừng này một cách phù hợp với đặc thù văn hóa, luật tục và tri thức truyền thống cộng đồng.
Tài liệu tham khảo:
- Borrini-Feyerabend, G., Kothari, A. and Oviedo, G. 2004. Indigenous and Local Communities and Protected Areas: Towards Equity and Enhanced Conservation. IUCN, Gland, Switzerland and Cambridge, UK. xviii + 111pp
- Bộ NN&PTNT. 2018. Quyết địnhh 1187/QĐ-BNN-TCLN ngày 3/4/2018 Công bố hiện trạng rừng toàn quốc 2017.
- Chi cục KL Hà Giang. 2017. Tổng hợp số liệu thống kê diện tích rừng được giao cho cộng đồng dân cư.
- Chi cục Kiểm lâm Sơn La. 2017. Tổng hợp số liệu thống kê diện tích rừng được giao cho cộng đồng dân cư tỉnh Sơn La.
- Dudley, N.. 2008 Guidelines for Applying Protected Area Management Categories, IUCN, Gland (Switzerland),
- International Union for Conservation of Nature. 2010. Sacred Natural Sites: Conserving Nature and Culture, Edited by Bas Verschuuren et al., Earthscan Ltd., Dunstan House, 14a St Cross Street, London EC1N 8XA, UK.
- Hoàng Văn Quynh. 2015. Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam: Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội: Khoa học Xã hội và nhân văn, Tập 31, Số 3, Tr. 71-79
- Hội đồng Dân tộc Quốc hội. 2017. Báo cáo giám sát rừng giao cho đồng bào dân tộc thiểu số.
- Sobrevila, C. .2008. The Role of Indigenous Peoples in Biodiversity Conservation: The Natural but Often Forgotten Partners, World Bank, Washington, DC
- Stan Steven .2016. Bảo tồn thông qua ICCA: Chính sách, luật pháp và kinh nghiệp quốc tế. Bài trình bày hội thảo quốc tế về ICCA tại Nam Ninh, Trung Quốc tháng 10/2016
- UNEP-WCMC & IUCN. 2016. Protected Planet Report 2016. UNEP-WCMC & IUCN: Cambridge UK & Gland, Switzerland.
- Vũ Trường Giang. 2011. Thiết chế xã hội truyền thống của các tộc người thiểu số Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 năm 2011. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Nguồn: http://bit.ly/btcs555
[1] Tổng hợp số liệu thống kê tại 24 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Kạn, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị,Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Nông và Kon Tum.
[2] Resolution 5.094 Respecting, recognizing and supporting Indigenous Peoples’ and Community Conserved Territories and Areas
[3] Điểm d khoản 2 và điểm a & b khoản 3, điều 5, Luật Lâm nghiệp 2017
[4] Điều 10, Luật Thuỷ sản 2017
Hoàng Xuân Thủy – Đặng Xuân Trường/PanNature