Phương án điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu của Bộ Tài chính được dự kiến có hiệu lực từ ngày 1.7.2018.
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến tham gia của các bộ, ngành, địa phương và tổ chức, cá nhân cho dự án Nghị quyết về biểu thuế bảo vệ môi trường, Bộ Tài chính cho biết đã nhận được 60 ý kiến tham gia bao gồm 14 ý kiến tham gia của các bộ ngành, 42 ý kiến tham gia của các địa phương và 4 ý kiến tham gia của các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức khác.
Với 40/60 ý kiến nhất trí hoàn toàn, Bộ Tài chính nhận định về cơ bản, các ý kiến đều nhất trí với sự cần thiết và nội dung của dự thảo Nghị quyết.
Theo đó, dự thảo Nghị quyết gửi lấy ý kiến đề nghị điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng tăng thêm 1.000 đồng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần trong khung 4.000 đồng/lít; dầu mazut và dầu nhờn tăng từ 900 đồng/lít lên mức trần trong khung 2.000 đồng/lít.
Thuế bảo vệ môi trường đối với mỡ nhờn tăng từ 900 đồng/kg lên mức trần trong khung 2.000 đồng/kg (tăng 1.100 đồng/kg). Các nhiên liệu bay, dầu hỏa giữ như hiện hành là 3.000 đồng/lít đối với nhiên liệu bay (mức trần trong khung thuế) và 300 đồng/lít đối với dầu hỏa (mức sàn trong khung thuế).
Bên cạnh đó, theo Bộ Tài Chính vẫn có một vài ý kiến đóng góp thêm như đề nghị điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với dầu mazut tăng từ 900 đồng/lít lên 1.500 đồng/lít hoặc điều chỉnh tăng từ 900 đồng/lít lên 1.200 đồng/lít để không ảnh hưởng đến giá thành của các sản phẩm sử dụng nhiên liệu dầu mazut, do đây là nhiên liệu đầu vào chủ yếu của các nhà máy điện, sản xuất kính, gốm sứ…
Về vấn đề này, Bộ Tài chính lập luận rằng dầu mazut là loại chất đốt gây ô nhiễm môi trường vì chứa hàm lượng lưu huỳnh cao (từ 2.0-3.5 mg/kg), khi đốt cháy sẽ tạo ra khí sunfuaro, một loại khí rất độc hại cho môi trường. Để hạn chế việc sử dụng sản phẩm nhiên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm môi trường, Bộ Tài chính đề nghị giữ như dự thảo Nghị quyết (đề nghị tăng mức thuế bảo vệ môi trường đối với dầu mazut từ 900 đồng/lít lên mức trần trong khung 2.000 đồng/lít).
Về ý kiến cần có lộ trình tăng mức thuế bảo vệ môi trường đến năm 2020 để phù hợp với nền kinh tế và sức mua của người dân, Bộ Tài chính nói rằng việc đề xuất điều chỉnh mức thuế đối với từng hàng hóa chịu thuế tại dự thảo Nghị quyết, trong đó có mặt hàng xăng dầu (tăng 3.000 đồng/lít lên 4.000 đồng/lít) là đảm bảo trong khung mức thuế bảo vệ môi trường và phù hợp với các nguyên tắc quy định mức thuế bảo vệ môi trường cụ thể quy định tại khoản 2 điều 8 luật thuế Bảo vệ môi trường.
Vẫn theo bộ này thì với phương án điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường nêu trên và dự kiến có hiệu lực từ ngày 1.7, việc điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường sẽ tác động đến chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 7 (so với tháng 6) khoảng 0,27-0,29% và sẽ tác động đến CPI bình quân năm 2018 là khoảng 0,11-0,15% (theo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 thì chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân ở mức 4%).
Tuy nhiên, Bộ Tài chính lại nhận định việc tăng thuế bảo vệ môi trường sẽ khuyến khích sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường (như xăng dầu sinh học E5, E10, dầu diesel B5, B10, túi nilon thân thiện với môi trường); từ đó sẽ giảm phát thải ô nhiễm môi trường, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường và thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ môi trường.
Có ý kiến cho rằng Bộ Tài chính cần phải công khai số tiền thu – chi từ thuế bảo vệ môi trường
Giải đáp vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết theo quy định của luật Ngân sách nhà nước, tất cả nguồn thu từ thuế, trong đó có thuế bảo vệ môi trường đều tập trung vào ngân sách nhà nước và được phân bổ chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội theo dự toán Quốc hội quyết định hàng năm, trong đó có thực hiện nhiệm vụ chi cho bảo vệ môi trường. Trên thực tế, nhiều năm nay, chi ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn cao hơn số thuế bảo vệ môi trường thu được. Tổng chi ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ bảo vệ môi trường giai đoạn 2012-2016 (chưa tính chi các hoạt động kinh tế, chi đầu tư phát triển, chi dự phòng của ngân sách địa phương cho các nhiệm vụ bảo vệ môi trường và các khoản vay, viện trợ chi trực tiếp cho dự án về bảo vệ môi trường không đưa vào ngân sách nhà nước) khoảng 131.857 tỉ đồng, bình quân khoảng 26.371 tỉ đồng/năm, cao hơn số thu thuế bảo vệ môi trường giai đoạn 2012-2016 (bình quân khoảng 21.197 tỉ đồng/năm). |