Ngày 1.3, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TPHCM đã tổ chức Hội nghị “phản biện xã hội đề xuất của UBND TPHCM về việc tăng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn TP”
Theo ý kiến các đại biểu, dự thảo khi thực hiện không nhằm mục đích tăng thêm nguồn thu mà nhằm điều chỉnh hành vi, ý thức từng cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường TPHCM.
Cơ sở y tế, xử lý rác cũng phải nộp phí
Theo UBND TPHCM, hiện trên địa bàn có gần 2.790 cơ sở sản xuất (thuộc 16 nhóm) đang nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải (tổng lưu lượng khoảng 143.430m3/ngày đêm). Mỗi năm, TPHCM thu 8 tỉ đồng. Tuy nhiên, các cơ sở y tế có phát sinh nước thải y tế (523 cơ sở, thải hơn 22.260m3/ngày đêm) và cơ sở xử lý chất thải rắn (thải hơn 7.880m3/ngày đêm) lại không thuộc đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Các cơ sở này có lưu lượng phát sinh nước thải lớn, có khả năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhưng không nộp phí là không công bằng. Do đó, UBND TPHCM đề xuất bổ sung 2 nhóm đối tượng này vào danh sách thu phí nước thải công nghiệp.
Ngoài ra, UBND TPHCM cũng đề xuất tăng cách tính phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp theo hướng thu tăng phí nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng nộp phí và tác động đến hành vi giảm xả nước thải ô nhiễm. Cụ thể, đối với các cơ sở sản xuất, chế biến có tổng lượng nước thải dưới 5m3/ngày đêm thì nộp mức phí cố định là 1,5 triệu đồng/năm. Các cơ sở có tổng lượng nước thải từ 5m3/ngày đêm trở lên thì sẽ áp dụng thêm hệ số K (lưu lượng nước thải). Đặc biệt, mức phí được tính tăng theo tỷ lệ thuận với hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong nước thải.
Theo tính toán, sau khi bổ sung, tổng số các cơ sở phải đóng phí là 3.310 cơ sở. Tổng lượng nước thải của các cơ sở thải ra khoảng 173.000m3/ngày đêm. Ngoài ra, khi thu phí theo phương thức mới, dự kiến TPHCM thu được 60 tỉ đồng/năm. UBND TPHCM phân tích việc tăng mức thu phí như đề xuất sẽ tác động một phần đến đời sống xã hội. Cụ thể, phí tăng có thể làm tăng mức phí các dịch vụ liên quan đến y tế, xử lý rác và từ đó tác động đến người dân. Tuy nhiên, việc tăng phí này sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức về bảo vệ môi trường, khuyến khích tiết kiệm nước, đầu tư hệ thống xử lý nước thải (giảm thiểu ô nhiễm thải ra môi trường) và tạo sự công bằng giữa các đối tượng nộp phí. Ngoài ra, nguồn kinh phí thu tăng thêm sẽ đóng góp vào ngân sách góp phần cải thiện môi trường, từ đó nâng chất lượng sống của người dân.
Mục đích chính là bảo vệ môi trường
Phản biện lại nội dung đề xuất trong dự thảo, đại biểu Tống Hữu Châu – Hội đồng tư vấn khoa học kỹ thuật và môi trường TPHCM – cho rằng, việc đưa đối tượng các cơ sở y tế, khám chữa bệnh vào đối tượng bị thu phí nên xem xét lại, bởi trước đây, TP yêu cầu các bệnh viện lớn xây dựng hệ thống xử lý rồi. Vì vậy, theo ông Châu, TP nên có chủ trương bắt buộc các cơ sở y tế nếu chưa có hệ thống xử lý nước thải thì phải xây dựng xong hệ thống xử lý nước thải trong quý 3 hoặc cuối năm 2018. “Trường hợp không xây dựng thì phải đóng cửa”- đại biểu Châu quyết liệt. Đại biểu Châu cũng cho rằng, cần phải tăng hệ số tính ô nhiễm đối với đơn vị xả thải. Nguyên tắc xả thải ô nhiễm càng nhiều thì hệ số tính phải càng lớn. Đặc biệt, danh mục các chất ô nhiễm phải được tăng lên thay vì chỉ có 6 chất như trong đề án. “Nếu TP thông qua danh mục này, các cơ sở khác xả thải chất gây ô nhiễm ngoài danh mục thì xử lý làm sao? Thực tế hiện nay có rất nhiều các chất gây ô nhiễm” – ông Châu cho hay.
Đồng quan điểm, PGS.TS Phạm Thành Hổ – ủy viên UBMTTQ VN TP, nguyên chủ nhiệm khoa Sinh học, ĐH Tổng hợp TP – cho rằng, nên có quy định cụ thể từng loại đối tượng, chất thải chứ không nên chung chung. Ngoài ra, nên quan tâm đến nông nghiệp hữu cơ và cần có xử phạt lẫn khen thưởng những DN đầu tư trang thiết bị hiện đại để xử lý nước thải, tốn kém tiền tỉ.
Tương tự, theo GS.TS Chu Phạm Ngọc Sơn, không nên đánh đồng hệ số K và nên xem mức độ ô nhiễm để đánh giá. Một nơi có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn với một mới có hệ thống xả thải nhưng xả thải không đạt tiêu chuẩn nếu đóng phí giống nhau thì không công bằng. Do đó, phải tính mức độ các chất nguy hiểm ẩn trong hệ số K. “Những đơn vị nào hàm lượng nước xả thải ra ít nhưng gây ô nhiễm nhiều thì lúc đó phải tính trên mức ô nhiễm chứ không phải tính theo hàm lượng nước. Quan trọng nhất vẫn phải quan trắc thường xuyên để đánh giá mức độ ô nhiễm thì mới giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường” – ông Sơn nhấn mạnh.
Trong khi đó, TS.Trương Minh Huy Vũ – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế, ĐH KHXHNV TPHCM – băn khoăn, TP có đủ cơ sở dữ liệu bao nhiêu % DN đang nằm trong “nháy nháy” phí nộp xả thải. Tiếp đó, cần xác định rõ các đối tượng cụ thể; đưa ra mức phí phù hợp cho từng loại đối tượng; cách thức tổ chức thu để đảm bảo minh bạch nguồn phí, lộ trình thực hiện.
Về phía doanh nghiệp, ông Vũ Anh Minh – đại diện Cty CP Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (Vissan) – cho rằng, nếu xác định hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong nước thải đối với cơ sở đã có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn thì cần hướng dẫn chi tiết khi nào tính dựa theo kết quả đo đạc, phân tích mẫu thực tế và khi nào thì áp dụng theo quy chuẩn xả thải để tránh nhập nhằng giữa cơ quan thu phí và cơ sở nộp phí bảo vệ môi trường. Ngoài ra, đối với cơ sở chưa có hệ thống xử lý nước thải hoặc có mà nước thải đầu ra không đạt chuẩn thì đều bị áp dụng chung khung mức độ ô nhiễm của ngành đặc thù là không công bằng.