Việt Nam những năm gần đây phải hứng chịu nhiều loại hình thiên tai với cường độ lớn, phạm vi rộng hơn, hậu quả nặng nề hơn gây thiệt hại về người và tài sản.
Từ đầu năm 2017 đến nay, thiên tai đã làm 386 người chết và mất tích, 654 người bị thương; hơn 8.126 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, hơn 561.696 nhà bị ngập, hư hại, tốc mái; 352.943 ha lúa và hoa màu bị thiệt hại; hơn 2,65 triệu gia cầm, gia súc bị chết, nhiều vị trí đê điều bị sự cố phải xử lý khẩn cấp, nhiều km kênh mương và đường giao thông bị sạt trượt… Tổng thiệt hại ước tính trên 60.000 tỷ đồng (tương đương trên 2,65 tỷ USD). Riêng bão số 12 và mưa lũ sau bão đã làm 123 người chết và mất tích, 38.629 lồng, bè và 1.809 tàu thuyền bị hư hỏng, thiệt hại; tổng thiệt hại kinh tế khoảng 22.680 tỷ đồng.
Những bài học kinh nghiệm
Ông Trần Quang Hoài, Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, thiệt hại về người và tài sản hàng năm vẫn còn lớn, nhất là thiệt hại về tài sản ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến đời sống, môi trường sản xuất kinh doanh, mục tiêu xóa đói giảm nghèo và chỉ số tăng trưởng của nền kinh tế. Một phần do tình hình thiên tai ngày càng lớn cả về cường độ, số lần xuất hiện và trái quy luật; khó dự báo, cảnh báo, nhiều tình huống bất ngờ, vượt quá năng lực chống chịu.
Mặt khác, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vẫn còn nhiều bất cập, như Luật Đê điều, Luật Phòng, chống thiên tai và các nghị định hướng dẫn thi hành sau thời gian thực hiện đã bộc lộ một số tồn tại cần sửa đổi, bổ sung. Cơ chế chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa ban hành kịp thời, nhất là cơ chế chính sách về tài chính; lồng ghép nội dung phòng chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; huy động sự tham gia của cộng đồng…
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phòng chống thiên tai còn nhiều nội dung chưa phù hợp, chưa xây dựng được cơ chế quản lý theo hướng tổng hợp như quản lý lũ tổng hợp, quản lý tổng hợp lưu vực sông…
Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến phòng, chống thiên tai chưa được điều chỉnh kịp thời trong điều kiện mới, đặc biệt là do tác động của biến đổi khí hậu; chưa có tiêu chuẩn đảm bảo các hoạt động của xã hội an toàn trước thiên tai,…
Tổ chức bộ máy còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa có cơ quan chuyên trách với các phòng tham mưu chuyên sâu tại các tỉnh, bộ phận, cán bộ chuyên trách cấp huyện, cấp xã, dẫn đến không đủ khả năng triển khai toàn diện Luật Phòng, chống thiên tai.
Thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn các bộ, ngành và địa phương làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, chưa dành nhiều thời gian cho công tác dẫn đến một số tình huống xử lý chưa kịp thời, chưa triển khai được đầy đủ các nhiệm vụ; cán bộ cấp huyện, xã còn hạn chế về năng lực.
Cơ quan làm công tác phòng, chống thiên tai các cấp còn hạn chế từ con người cho tới trang thiết bị, công cụ hỗ trợ… nên chưa đủ năng lực cũng như chuyên tâm theo dõi, giám sát, cảnh báo và tham mưu kịp thời.
Tình trạng thiếu hiểu biết của lực lượng chuyên môn về nhận dạng thiên tai và giải pháp xử lý; thiếu hiểu biết, kỹ năng phòng chống thiên tai của nhiều bộ phận dân cư, doanh nghiệp dẫn tới rủi ro thiên tai cho bản thân, gia đình và cơ sở sản xuất, như làm nhà tại khu vực trong lòng, sát bờ sông suối, chân, sườn núi; xuất hiện thiên tai nhưng không phòng, tránh kịp thời; sản xuất không đúng thời vụ… Đa phần người dân chưa ý thức việc cần phải đầu tư, đóng góp cho công tác phòng chống thiên tai để bảo vệ chính cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tình trạng thiếu nguồn lực và hạn chế về cơ sở hạ tầng, trong khi việc phát triển các thiết chế hạ tầng mới như đường giao thông, các hạ tầng lớn khác lại chưa tính đến yếu tố rủi ro thiên tai, dẫn đến mất an toàn cho công trình, dự án và gia tăng rủi ro cho khu vực lân cận. Khả năng chống chịu của cơ sở hạ tầng, công trình phòng, chống thiên tai còn hạn chế.
Hệ thống cảnh báo, thông tin, truyền thông tới cộng đồng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa còn hết sức khó khăn do địa hình chia cắt, dân cư phân tán. Công tác di dân vùng thiên tai; thực hiện chương trình di dân theo Quyết định 1776/QĐ-TTg gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực.
Việc ứng dụng khoa học, công nghệ còn hạn chế. Ở nước ta hiện nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải trực tiếp đến thực địa để chỉ đạo điều hành do thiếu thông tin trực tuyến và đường truyền, thông tin liên lạc thường bị gián đoạn khi có thiên tai nên khi chỉ đạo ứng phó thiên tai xảy ra trên diện rộng, điều hành liên hồ chứa có độ chính xác không cao và thường để lại hậu quả rất lớn.
Cần giải pháp đồng bộ, hữu hiệu
Theo dự báo của các cơ quan quốc tế và trong nước, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng làm cường độ thiên tai trung bình có xu thế gia tăng, tần suất thiên tai lớn xuất hiện dày hơn, trong đó nhiều đợt thiên tai cực đoan, trái quy luật trước đây.
Năm 2017, Liên hợp quốc lấy chủ đề ngày quốc tế giảm nhẹ rủi ro thiên tai là “Nhà nhà an toàn: Giảm rủi ro và sơ tán khi có thiên tai”, đây là tiền đề cho một số giải pháp trong tương lai trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo đó, giảm nhẹ rủi ro thiên tai đến từng hộ gia đình, giảm thiểu nguy cơ bị ảnh hưởng, giảm thiểu nguy cơ di cư và mất nơi ở chính là một trong những mục tiêu hàng đầu, phù hợp với mục tiêu số 7 của Khung hành động Sendai được Đại hội đồng Liên hợp quốc ban hành năm 2015.
Xây dựng kế hoạch phòng, chống thiên tai tổng thể trên cơ sở hệ thống thông tin đa chiều, mọi hoạt động kinh tế – xã hội phải đảm bảo giảm nhẹ rủi ro thiên tai, phải hiểu rõ cơ chế hình thành, xu thế, xây dựng kịch bản với rủi ro thiên tai. Luật Phòng, chống thiên tai quy định trách nhiệm xây dựng và nội dung chính của Kế hoạch phòng, chống thiên tai tại các cấp. Theo đó, Kế hoạch phòng, chống thiên tai phải được xây dựng tại các cấp địa phương, cấp bộ và cấp quốc gia theo chu kỳ kế hoạch 5 năm tương ứng với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và được điều chỉnh hằng năm.
“Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nhiều hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng phải đảm bảo hoạt động phát triển kinh tế – xã hội không được gây ra những rủi ro mới. Cần có chương trình kiểm soát an toàn thiên tai đối với các hoạt động phát triển, đầu tư xây dựng mới cơ sở hạ tầng hoặc hoạt động có tiềm tàng nguy cơ phát sinh rủi ro, đồng thời nâng cao nhận thức chung thông qua những bài học kinh nghiệm đã tổng hợp qua nhiều giai đoạn của Việt Nam và thế giới”, ông Trần Quang Hoài nhấn mạnh.
Các hoạt động khoa học công nghệ của Việt Nam trong giảm nhẹ rủi ro thiên tai cần làm rõ, nhấn mạnh nguy cơ rủi ro thiên tai để tăng hiểu biết về rủi ro thiên tai, áp dụng các giải pháp giảm nhẹ rủi ro thiên tai dựa vào hệ sinh thái, quản lý tổng hợp rủi ro thiên tai ở cả cấp quốc gia và địa phương.
Ngân sách cho khắc phục hậu quả thiên tai và tái thiết sau thiên tai mặc dù đã được Chính phủ rất quan tâm, song còn ở mức thấp so với yêu cầu. Nguồn kinh phí chủ yếu đang dựa vào ngân sách nhà nước, chưa thực hiện được bảo hiểm rủi ro thiên tai. Việc tiếp nhận hỗ trợ từ các nguồn kinh phí của xã hội, các tổ chức quốc tế còn nhiều bất cập, đang là những khó khắn lớn của quá trình khắc phục, tái thiết sau thiên tai.
Tổng cục Phòng chống thiên tai trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được thành lập nhằm tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình phòng chống thiên tai.
Ngoài ra, cần tập trung thực hiện một số giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, kế hoạch; nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống công trình phòng chống thiên tai; nâng cao năng lực quản lý nhà nước, chỉ đạo điều hành phòng chống thiên tai các cấp, hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ,… các doanh nghiệp, cộng đồng.
Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và toàn xã hội, công tác phòng, chống thiên tai sẽ đạt trình độ các nước tiên tiến trên thế giới, hướng tới mục tiêu cao nhất là bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho người dân, góp phần giữ gìn thành quả phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.