Tây Bắc là một trong những vùng dễ bị tổn thương bởi những biến động bất thường của thời tiết bởi nơi đây sinh kế dựa hoàn toàn vào nông nghiệp, lại nằm trong khu vực có những điều kiện địa hình, đất đai phức tạp và khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, tiếp cận thị trường còn hạn chế, nguồn lực đầu tư cho sản xuất còn nhiều thiếu thốn. Hiện khu vực này vẫn phổ biến các phương thức canh tác và các hệ thống sản xuất ít bền vững, có hiệu quả kinh tế thấp và không ổn định, chủ yếu là độc canh ngô, sắn trên nương và lúa nước ở các đồng bằng và thung lũng, gây xói mòn, thoái hóa đất, ô nhiễm môi trường, và dễ bị ảnh hưởng bởi khô hạn, rét đậm kéo dài hoặc mưa to, lũ quét. Đối với chăn nuôi, việc thiếu nguồn thức ăn chất lượng và kỹ thuật phòng chống dịch bệnh khiến cho tỷ lệ gia súc, gia cầm chết hàng năm cao, hiệu quả kinh tế thấp. Thực tế này cho thấy nhu cầu cần chuyển đổi và ứng dụng các phương thức canh tác vừa thân thiện môi trường, vừa nâng cao hiệu quả kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu là rất cần thiết với Tây Bắc.
Một số thực hành nông nghiệp ứng phó BĐKH ở Tây Bắc
Theo các nghiên cứu do Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc thực hiện từ năm 2010-2015, nhiều thực hành nông nghiệp ứng phó BĐKH (hay còn gọi thực hành nông nghiệp thông minh với khí hậu; Climate-Smart Agriculture – CSA) đã được chuyển giao cho ứng dụng tại Tây Bắc. Các thực hành này có thể được chia thành 3 nhóm chính: (i) trong canh tác lúa nước, (ii) trong canh tác trên đất dốc, (iii) trong các hệ thống đa canh và hướng tới chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc ứng dụng các thực hành này ở Tây Bắc còn rất hạn chế.
Thực hành CSA trong canh tác lúa nước
Nhóm này bao gồm các thực hành chính: bón phân dúi sâu; quản lý cây trồng tổng hợp; hệ thống thâm canh lúa; xử lý nhanh rơm, rạ thành phân hữu sử dụng chế phẩm vi sinh; canh tác lúa theo hàng rộng, hàng hẹp và phát triển cây vụ đông.
Phân nén dúi sâu (Fertilizer Deep Placement – FDP) là tiến bộ kỹ thuật được xây dựng với mục tiêu tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm lượng phân hóa học bị bón bốc hơi và rửa trôi, đồng thời cải thiện sinh trưởng, phát triển, năng suất và hiệu quả kinh tế của cây trồng. Phân kali và nitơ được trộn lẫn và nén thành viên để sử dụng bón dúi sâu dưới bề mặt đất, gần các vùng phát triển của rễ cây. So với phương pháp bón phân thông thường, biện pháp này làm giảm độ bốc hơi và rửa trôi của phân bón và do đó làm tăng hiệu quả kinh tế và giảm các tác động tiêu cực đến môi trường và khí hậu. Ở Tây Bắc, FDP hiện được ứng dụng nhiều ở Yên Bái, trên cánh đồng Mường Lò; các tỉnh khác hầu như chưa được ứng dụng. Điều đáng nói là đa số các hộ ứng dụng FDP không áp dụng đầy đủ cả gói kỹ thuật, hầu như không hộ nào thực hiện bón lót đủ phân chuồng hoặc các loại phân hữu cơ khác như khuyến cáo, làm cho đất ruộng dần bị chai cứng. Cản trở chính trong việc mở rộng ứng dụng DFP là thao tác bón phân dúi tốn nhiều công lao độngvà ở nhiều nơi phân viên nén chưa có sẵn trên thị trường.
Quản lý cây trồng tổng hợp (Integrated Crop Management –ICM) giúp tăng hiệu quả kinh tế và năng suất cây trồng thông qua việc giảm chi phí vật tư (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), sử dụng cây giống khỏe, cấy mạ non, cấy thưa, bón phân cân đối và chăm sóc cho cây trồng khỏe, ít bị tác động bởi sâu bệnh hại và những biến động bất thường về thời tiết. ICM được khuyến cáo ứng dụng tại Việt Nam từ những năm 2001-2002. Để phù hợp với nhu cầu cụ thể trong sản xuất, ICM được cụ thế hóa thành các gói kỹ thuật khác nhau như “1 phải 5 giảm” và “3 giảm 3 tăng” ở các tỉnh phía Nam. Hiện ở Tây Bắc, ICM được ứng dụng bởi hầu hết các nông hộ cho lúa nước. Tuy nhiên, do nhiều lý do, nông dân mới chỉ ứng dụng được một phần của gói kỹ thuật, cụ thể: do không tiếp cận được nguồn giống tốt nên nhiều nơi, nông dân vẫn phải dùng hạt giống kém chất lượng, không rõ nguồn gốc; do thiếu nguồn phân hữu cơ nên đa số nông dân không thực hiện bón lót đủ như hướng dẫn; do quy trình kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian quan sát và quản lý sâu bệnh hại, quản lý đồng ruộng nên đa số nông dân chưa áp dụng được triệt để quản lý dịch hại tổng hợp.
Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) có mục tiêu giảm tối đa thời gian ruộng lúa được tưới ướt và ngập nước, giảm mật độ cây lúa và giảm chi phí đầu tư (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), nhằm giảm phát thải khí nhà kính từ ruộng lúa nước, đồng thời tăng hiệu quả kinh tế cho nông dân. Khi được ứng dụng đầy đủ, SRI có thể giúp giảm 70 – 90% lượng lúa giống, 20 – 25% lượng phân đạm và tăng 10 – 15% năng suất lúa (Lại Đình Hòe, 2016), giảm 50% lượng phát thải khí nhà kính (Huỳnh Quang Tín và cộng sự, 2011). Tuy vậy, để các nông hộ ứng dụng SRI, cần có những điều kiện nhất định như: mặt ruộng phải bằng phẳng, hệ thống kênh mương phải đủ để có thể chủ động thực hiện tưới ướt-khô xen kẽ phù hợp thời kỳ sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Ở Tây Bắc, do điều kiện kênh mương và nguồn nước tưới không cho phép và do thói quen cấy dày của nông dân SRI hầu như chưa được ứng dụng. Tuy nhiên, đa số nông dân ở đây đã giảm mật độ cấy, cấy mạ non và cấy ít dảnh hơn, bón phân với tỷ lệ đạm thấp hơn… giống như khi thực hiện ICM.
Xử lý nhanh rơm, rạ thành phân hữu sử dụng chế phẩm vi sinh cũng là một thực hành CSA. Việc đốt bỏ rơm, rạ tại ruộng hoặc ở nơi tuốt, phơi lúa không chỉ gây ô nhiễm môi trường, tạo phát thải khí CO2 mà còn lãng phí nguồn nguyên liệu làm phân hữu cơ. Nếu dùng chế phẩm sinh học (EM) xử lý trực tiếp phần rạ trên đồng ruộng thì chỉ sau 7-15 ngày rạ hoàn toàn bị phân hủy và có thể bừa ruộng để cấy lúa vụ tiếp theo. Nếu ủ đống với EM thì sau khoảng 1 tháng rơm rạ sẽ thành phân hữu cơ. Xử lý nhanh rơm, rạ trên ruộng giúp nông dân chủ động bố trí lịch gieo cấy lúa vụ 2, tránh những bấp cập về thời tiết, thích ứng tốt hơn với BĐKH.
Canh tác lúa theo hàng rộng, hàng hẹp và phát triển cây vụ đông bao gồm điều chỉnh khoảng cách giữa các hàng lúa để cứ hai hàng cách nhau xa (hàng rộng 35 cm) lại tới hai hàng cách nhau gần (hàng hẹp 11 cm) sao cho mật độ lúa trung bình trên một đơn vị diện tích đất không thay đổi. Thực hành này giúp lúa sinh trưởng khỏe, hạn chế thiệt hại do sâu bệnh, giảm tới 20% lượng thuốc bảo vệ thực vật, tăng năng suất lúa trên 10%. Ngoài ra, cấy lúa theo hàng rộng, hàng hẹp còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại chăm bón, làm cỏ và đặc biệt thuận lợi để trồng gối vụ ngô hoặc rau màu vụ đông (trồng bầu ngô hoặc rau vào hàng rộng trước khi thu hoạch lúa khoảng 1 tuần), giúp cây vụ đông tránh được khô hạn và rét sớm, cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Khó khăn lớn nhất để mở rộng ứng dụng thực hành này là nông dân thấy mất nhiều công lao động và chưa quen với điều chỉnh khoảng cách hàng lúa và trồng ngô bầu, rau gối vụ.
Thực hành CSA trong canh tác trên đất dốc
Nhóm này bao gồm các thực hành che phủ bề mặt đất và làm đất tối thiểu; trồng xen với cây họ đậu; làm tiểu bậc thang; và trồng cỏ chống xói mòn.
Che phủ bề mặt đất và làm đất tối thiểu (còn được gọi là thực hành nông nghiệp bảo tồn hay gieo trồng thẳng trên lớp phủ bằng thân xác thực vật) bao gồm không đốt, không dọn bỏ tàn dư thực vật (gồm thân xác cây trồng và cỏ dại) mà giữ toàn bộ lại trên ruộng nương để che phủ bề mặt đất, đồng thời, không cày, không cuốc nương mà chỉ rạch hàng hoặc bổ hốc để bón phân và tra hạt/trồng cây. Ứng dụng thực hành này giúp đất giữ ẩm tốt, nhờ vậy giúp hạt nảy mầm tốt (tăng 10-20% đối với ngô), giảm sự bốc hơi và rửa trôi của phân bón, giúp cây sinh trưởng khỏe, chống chịu tốt hơn với sâu bệnh hại và khô hạn, cho năng suất cao hơn, tới 20-25% đối với ngô và sắn (Phạm Thị Sến và ctv, 2015). Lớp phủ bề mặt đất còn giúp giảm lượng đất bị rửa trôi tới 80% và nhờ vậy bảo vệ được đất và giảm được phát thải khí nhà kính do phân hủy và bốc hơi các chất hữu cơ và phân bón bị rửa trôi cùng với đất. Thực hành này đang ngày càng được quan tâm mở rộng ứng dụng bởi các sở NN&PTNT các tỉnh Tây Bắc.
Trồng xen với cây họ đậu nhằm tạo sinh khối để che phủ, bảo vệ đất khỏi bị xói mòn, làm giàu dinh dưỡng đất và đồng thời tăng thu nhập cho nông dân. Cây trồng xen thường là các loại đậu đỗ khác nhau, như đậu nho nhe, đậu đen, đậu tương và đậu xanh, được gieo xen vào giữa các hàng cây trồng chính. Ngoài giúp bảo vệ và cải thiện độ màu mỡ của đất, trồng xen còn có thể làm tăng năng suất ngô và sắn tới 10-20%. Hiện kỹ thuật này được ứng dụng tại một số địa phương ở Tây Bắc. Tuy nhiên, mỗi hộ chỉ thực hành trên một diện tích nhỏ từ vài chục mét tới một vài trăm mét vuông để có thêm đậu đỗ sử dụng trong gia đình. Việc tốn nhiều công lao động và khó khăn trong chăm sóc, nhất là phòng trừ sâu bệnh hại cho cây trồng xen là nguyên nhân chính cản trở nông dân ứng dụng thực hành trên diện rộng.
Tạo tiểu bậc thang trên nương dốc vừa giúp hạn chế xói mòn, rửa trôi đất và vừa làm tăng hiệu quả sử dụng phân bón và tăng năng suất, hiệu quả kinh tế cây trồng. Có thể kết hợp tiểu bậc thang với che phủ đất hoặc trồng xen với cây họ đậu. Một số nghiên cứu đã ghi nhận tiểu bậc thang làm tăng năng suất ngô tới trên 20% và giảm xói mòn đất rõ rệt (Phạm Thị Sến và ctv., 2015). Tuy nhiên, do việc tạo và duy trì tiểu bậc thang đòi hỏi nhiều công lao động, hiện nông dân Tây Bắc chưa ứng dụng kỹ thuật này cho cây hàng năm.
Trồng xen cỏ để bảo vệ đất và làm thức ăn cho gia súc bao gồm trồng có thành băng đồng mức hoặc trồng xen vào giữa các hàng của cây trồng chính. Các loại cỏ được sử dụng chính gồm mulato, vetiver, paspalum, guatemala, guinea hoặc cỏ voi. Khi không dùng cỏ cho chăn nuôi, các băng cỏ vẫn cần được thu cắt thường xuyên và có thể sử dụng để che phủ đất hoặc làm phân xanh, phân hữu cơ. Thay bằng cỏ, có thể trồng một số các cây trồng khác (đậu triều, muồng lá trò, cốt khí, keo dậu…) để tạo băng xanh đồng mức. Cũng có thể xếp đá hoặc thân, cành cây (ngô, sắn) vụ trước thành băng ngăn xói mòn đất. Thông thường, khoảng cách giữa các băng là 10 m nhưng cũng có thể xa hơn, hoặc gần hơn, tùy vào độ dốc của nương. Đối với vùng Tây Bắc, khó khăn lớn nhất để nông dân ứng dụng thực hành này là việc cần đầu tư thêm công lao động để tạo các băng đồng mức hoăc để trồng và chăm sóc cỏ.
Các hệ thống đa canh và hướng tới chất lượng sản phẩm
Nhóm này bao gồm các hệ thống đa canh kếhợp trồng xen cây ngắn ngày, cây dài ngày, chăn nuôi kết hợp trồng trọt; và sản xuất theo nông nghiệp hữu cơ hoặc VietGap.
Các hệ thống đa canh, kết hợp nhiều loại cây, kết hợp chăn nuôi với trồng trọt là nhằm tạo nguồn thu nhập bổ sung cho nông dân trước khi các cây dài ngày cho thu hoạch (lấy ngắn nuôi dài), đồng thời cũng tạo nguồn vật liệu che phủ, bảo vệ và chống xói mòn đất khi cây dài ngày chưa khép tán. Trong khoảng từ 1 đến 5 năm đầu, tùy thuộc vào từng loại cây, sau khi trồng cây dài ngày (chè, cà phê, cao su, cây ăn quả), các loại cây ngắn ngày như đậu đen, lạc, ngô, sắn, gừng, dong riềng, cây thuốc, được trồng xen vào giữa các hàng cây dài ngày.Việc trồng xen thường được thực hiện cho tới khi cây dài ngày khép tán. Hệ thống nông nghiệp tổng hợp tiêu biểu là VAC (vườn, ao, chuồng) và vườn tạp, phổ biến ở tất cả các miền quê trên cả nước, kể cả Tây Bắc. Các hệ thống này, nhờ kết hợp chăn nuôi với trồng trọt, kết hợp nhiều loại cây trồng, trở thành thành những hệ sinh thái khép kín, ở đó chất thải, năng lượng và sinh khối được quay vòng, các nguồn tài nguyên nước, đất và năng lượng mặt trời được sử dụng hiệu quả, rác thải được xử lý thành phân bón hoặc thức ăn chăn nuôi.
Sản xuất theo nông nghiệp hữu cơ hoặc VietGap nhằm cung cấp sản phẩm an toàn vàgóp phần bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính nhờ vào việc hạn chế hoặc hoàn toàn không sử dụng hóa chất tổng hợp cho cây trồng, vật nuôi. Riêng nông nghiệp hữu cơ còn đặc biệt quan tâm tới khôi phục độ màu mỡ và cấu trúc của đất bằng cách chỉ sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học. Ứng dụng VietGap và nông nghiệp hữu cơ cũng còn tạo điều kiện chuyển đổi đất lúa, đất ngô kém hiệu quả sang đất trồng rau màu, cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, hiện ở các tỉnh Tây Bắc, sản xuất hữu cơ với chứng nhận PGS mới chỉ được ứng dụng ở Hòa Bình cho một số ít diện tích rau, lợn, gà. Khó khăn lớn nhất để mở rộng thực hành nông nghiệp hữu cơ và VietGap bao gồm chi phí cao, khó quản lý sâu bệnh hại, giá thành sản phẩm cao, phức tạp và khó khăn trong vấn đề đăng ký, nhận diện và quản lý chất lượng sản phẩm.
Những yếu tố tác động tới mở rộng ứng dụng thực hành CSA tại Tây Bắc
Như đã thảo luận ở trên, yêu cầu đầu tư tăng về công lao động, vật tư và kỹ thuật cùng những khó khăn trong tiếp cận thị trường, mua vật tư và tiêu thụ sản phẩm là những cản trở chính trong việc thúc đẩy ứng dụng thực hành CSA. Để giúp nông dân Tây Bắc khắc phục nhữngkhó khăn này, những yếu tố sau cần được quan tâm xem xét:
Điều kiện kinh tế hộ và sự hỗ trợ từ các đề tài, dự án: Kết quả điều tra của Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc cho thấy hầu hết các hộ ứng dụng thực hành CSA thuộc diện hộ không nghèo. Mặt khác, thường một hộ khi đã ứng dụng một thực hành CSA thì cũng dễ dàng đón nhận và ứng dụng một số thực hành khác. Những địa phương có nhiều hộ ứng dụng thực hành CSA đều thuộc địa bàn của một số dự án khuyến nông hoặc phát triển nông nghiệp. Điều này cho thấy sự hỗ trợ từ các đề tài, dự án và khả năng đầu tư kinh tế của nông hộ là cần thiết để nông dân khắc phục khó khăn trong thử nghiệm và ứng dụng thực hành CSA. “Hỗ trợ” ở đây bao gồm hướng dẫn kỹ thuật và cung cấp một số vật tư ban đầu.
Sự phức tạp của các gói kỹ thuật CSA và việc ứng dụng chỉ một phần các gói kỹ thuật: Hầu hết các gói kỹ thuật CSA gồm nhiều khâu và hiện được nông dân Tây Bắc ứng dụng không đầy đủ. Việc ứng dụng chỉ một phần hoặc một số phần của các gói kỹ thuật giúp nông dân có thể linh hoạt và khắc phục những khó khăn về công lao động, vốn đầu tư, máy móc, công cụ và vật tư. Mặt khác, việc áp dụng không đầy đủ các gói kỹ thuật giúp mang lại lợi ích kinh tế trước mắt nhờ vào việc giảm chi phí về công lao động và vật tư, đồng thời cũng góp phần trước mắt giảm bớt một số tác động xấu tới môi trường và khí hậu. Tuy nhiên, sau một số năm ứng dụng không đầy đủ các gói kỹ thuật sẽ tạo nên tác động xấu tới môi trường đất, nước, khí hậu và cả tới sinh trưởng, năng suất cây trồng. Chẳng hạn như do thiếu công lao động và vật liệu để che phủ bề mặt đất, thay bằng thực hiện đồng thời cả che phủ đất và làm đất tối thiểu, nhiều nông hộ chỉ thực hiện làm đất tối thiểu để trồng sắn và ngô trên đất dốc. Điều này trước mắt, giúp hạn chế xói mòn đất và giảm chi phí công lao động nhưng về lâu dài, sau một số năm ứng dụng, đất sẽ trở nên chai cứng và bị thoái hóa. Hoặc vì thiếu nguồn phân chuồng, nhiều nông dân đã thực hành FDP nhưng lại không bón lót đầy đủ phân hữu cơ. Việc này trước mắt giúp giảm công bón phân, tăng hiệu quả kinh tế, đồng thời hạn chế được lượng phân hóa học bị bốc hơi và bị rửa trôi, nhờ đó giảm được tác động xấu tới môi trường đất, nước và khí hậu. Tuy nhiên, sau một số năm thực hành như vậy, đất ruộng sẽ trở nên chai cứng, cấu trúc và thành phần đất bị thay đổi theo chiều hướng không có lợi. Khi nhận thấy các tác động không tốt, nông dân sẽ tin đó là do các thực hành CSA và họ sẽ từ chối ứng dụng các thực hành này. Như vậy, việc đơn giản hóa các gói kỹ thuật và việc hỗ trợ, tạo điều kiện giúp nông dân ứng dụng đầy đủ tất cả các khâu của các gói kỹ thuật CSA là cần thiết. “Tạo điều kiện” ở đây bao gồm hỗ trợ tiếp cận thị trường vật tư sản xuất, hỗ trợ tạo các nguồn vật tư tại chỗ như xử lý rác thải và phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ, tăng cường hiểu biết về kỹ thuật và năng lực thực hành các gói kỹ thuật. Hơn nữa, cần có các mô hình chuẩn, ở đó các gói kỹ thuật được ứng dụng đúng và đầy đủ để trình diễn cho nông dân thấy rõ tác động lâu dài, bền vững của các gói kỹ thuật CSA.
Tiếp cận thông tin: Theo kết quả điều tra của Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, hệ thống khuyến nông nhà nước là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu tới các hộ nông dân, tiếp theo là hàng xóm cùng các nông dân khác và các nhà kinh doanh vật tư nông nghiệp. Ngoài ra, các kênh truyền thông như ấn phẩm, ti vi và đài tiếng nói cũng có vai trò đáng kể trong việc truyền tải thông tin tới các nông hộ, đặc biệt là hệ thống loa phát thanh thôn, bản (Đỗ Trọng Hiếu và ctv., 2015). Cán bộ khuyến nông nhà nước, hàng xóm, những nông dân khác và hệ thống loa, đài cung cấp đa dạng các loại thông tin, cả về vật tư sản xuất và nhiều kỹ thuật khác nhau. Trong khi đó, các nhà kinh doanh nông nghiệp chủ yếu cung cấp thông tin về vật tư và giá thị trường. Kết quả điều tra cũng cho thấy ở những nơi có nhiều hộ được tiếp cận thông tin về kỹ thuật hơn thì ở nơi đó cũng có nhiều hộ ứng dụng kỹ thuật đó hơn. Như vậy, tăng cường tiếp cận thông tin có ý nghĩa thúc đẩy mở rộng ứng dụng các thực hành CSA. Hình thức chia sẻ thông tin và chuyển giao kỹ thuật hiệu quả nhất hiện nay là thông qua hệ thống khuyến nông địa phương và chia sẻ thông tin giữa nông dân – nông dân. Như vậy, cần đầu tư tăng cường năng lực về các thực hành CSA và cả về kỹ năng chuyển giao kỹ thuật, kỹ năng làm việc với nông dân cho cán bộ khuyến nông địa phương và tạo điều kiện để nông dân học tập, chia sẻ kinh nghiệm lẫn cho nhau.
Rủi ro và tiếp cận thị trường: Một số thực hành CSA đòi hỏi chi phí công lao động cao trong thời gian đầu ứng dụng, như làm tiểu bậc thang, che phủ đất và làm đất tối thiểu, hoặc trồng xen băng cỏ. Một số kỹ thuật khác đòi hỏi phải sử dụng một số loại vật tư hoặc công cụ mới, chưa phổ biến tại thị trường địa phương, ví dụ như phân nén dúi và các công cụ tra hạt thẳng trên lớp phủ thực vật. Trong khi đó, các thực hành này lại thường chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho nông dân sau một số năm ứng dụng. Trong điều kiện của Tây Bắc thì đây chính là một trong những rào cản chính cản trở nông hộ ứng dụng và ứng dụng một cách đầy đủ các gói kỹ thuật; khi chi phí công lao động cao hoặc do thiếu một số nguyên vật liệu, nông dân không ứng dụng được đầy đủ các gói kỹ thuật. Mặt khác, thị trường đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm mới của các hệ thống xen canh và canh tác theo VietGap hoặc theo nông nghiệp hữu cơ còn chưa ổn định. Hiện tại, nông dân Tây Bắc hoàn toàn phụ thuộc vào những người thu gom, kinh doanh nhỏ lẻ địa phương để tiêu thụ sản phẩm và mua vật tư sản xuất. Họ chưa tiếp cận được với thị trường bên ngoài để có thể thương thuyết, mua bán với giá hợp lý. Để thúc đẩy ứng dụng thực hành CSA, việc tăng cường phát triển liên kết với thị trường bên ngoài là cần thiết để nông dân có thể tiếp cận nguồn nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất, đồng thời cũng có thể dễ dàng tiêu thụ sản phẩm từ các hệ thống sản xuất của họ.
Kết luận và đề xuất
Để giúp nông dân Tây Bắc mở rộng ứng dụng các thực hành CSA, cần (i) đơn giản tới mức tối đa các thực hành CSA để nông dân dễ hiểu, dễ ứng dụng; (ii) tập huấn, hướng dẫn về kỹ thuật cho cán bộ khuyến nông và nông dân nòng cốt và tạo điều kiện cho những người này hướng dẫn đông đảo nông dân; (iii) xây dựng các mô hình ứng dụng thành công thực hành CSA và tổ chức cho nông dân thăm quan, thảo luận, học tập từ các mô hình này; (iv) hỗ trợ về kinh tế hoặc cam kết được bồi thường rủi ro trong những năm đầu để nông dân yên tâm đầu tư lao động và kinh phí cho việc thử ứng dụng và mở rộng ứng dụng thực hành CSA; (v) hỗ trợ phát triển liên kêt thị trường để nông dân có thể mua vật tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với giá hợp lý, kịp thời hạn, đồng thời phát triển hệ thống và tiêu chuẩn đánh giá, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, nhất là đối với các sản phẩm hữu cơ hoặc VietGap. Đặc biệt, cần lồng ghép biến đổi khí hậu vào các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển nông nghiệp của các địa phương cũng như toàn khu vực.
Phạm Thị Sến, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI)
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009, Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam.
- Đỗ Trọng Hiếu, Lê Khải Hoàn, Lê Viết San, Lưu Ngọc Quyến, Phạm Thị Sến, 2015. Hướng tới các làng ứng phó thông minh với biến đổi khí hậu (CSV) ở miền núi phía Bắc. Trong “Kỷ yếu nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, 2006 – 2010”.
- Lại Đình Hòe, 2015. Một số tiến bộ kỹ thuật cho lúa ở vùng khó khăn, những rào cản cản trở nông dân ứng dụng trong sản xuất. Báo cáo trình bày tại Hội nghị Tham vấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất lúa cho vùng cao khó khăn ở miền Trung và miền núi phía Bắc Việt Nam, Hà Nội, 9-10 tháng 11 năm 2015.
- Lê Quốc Doanh, Hà Đình Tuấn, Andre Chabanne, 2005. Canh tác đất dốc bền vững, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Phạm Thị Sến và ctv, 2015. Kết quả nghiên cứu thúc đẩy ứng dụng thực hành sử dụng đất bền vững trong hệ thống canh tác với ngô là cây trồng chính trên đất dốc vùng Tây Bắc. Trong “Kỷ yếu nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, 2006 – 2010”.
Tiếng Anh:
- 2007. The fourth assessment report (AR4) of the Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC): Climate change 2007- Synthesis report. IPCC, Geneva, Switzerland. http://www.ipcc.ch/publications_and_data/ar4/syr/en/contents.ht.
- IPPC, 2007a. Climate change 2007a: impacts, adaptation and vulnerability, M.L. Parry, O.F. Canziani, J.P. Palutikof, P.J. van der Linder & C.E. Hanson, eds. pp. 869-883. Contribution of Working Group II to the Fourth Assessment Report of the IPCC. Glossary‖. Cambridge, Cambridge University Press.
- Le, Q. D., Ha, D.T., 2008. Conservation agriculture on sloping lands in Northern mountainous regions of Vietnam. In: Monthathip, C., Khamhung, A., Panyasiri, K., Chabanne, A., Jullien, F., Hoa, T. Q., Lienhard P., Tivet, F. (Eds.), Investing in sustainable agriculture: The case of conservation agriculture and direct seedling mulch-based cropping systems. Proceedings of the Regional workshop held in Phonsavan, Xieng Khouang province, Lao PDR, 28th October-1st November 2008, pp. 27-36.
- Huỳnh Quang Tín et al., 2011. Report on the comparision of rice cultivation effectiveness and the methane (CH4) emission of the five cultivation models in Binh Hoa commune-Chau Thanh districy- An Giang province, winter-spring crop 2010-2011.