ThienNhien.Net – Họ chung thủy gắn bó cả đời với nghề, rồi lại truyền nghề cho thế hệ con cháu. Họ mơ ước được lên bờ sinh sống, để thoát khỏi kiếp nổi lênh đênh phận đời sông nước. Nhưng, ước mơ ấy vẫn mãi chỉ là ước mơ khi cuộc sống của họ cứ bập bềnh chìm nổi theo con nước vơi đầy…
Thuyền là nhà, sông nước là quê hương
Trên lòng hồ Thủy điện Sêsan nằm giữa hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum, có 24 hộ dân đang sinh sống. Những người theo nghề này gắn bó cả cuộc đời mình trên những chiếc thuyền, trôi nổi khắp các con sông, đập nước, xem con thuyền là nhà, sông nước là quê hương.
Họ đã từng sống, từng lênh đênh trên những con thuyền được coi là mái nhà của họ mấy chục năm qua. Không nghề nghiệp, không mảnh đất dựng nhà, chỉ trôi nổi với chiếc thuyền chài lênh đênh trên sông nước. Đó là tình cảnh của hàng chục nhân khẩu xóm lòng hồ nơi thủy điện với cái tên rất đẹp là xóm Điếu Ngư này.
Đứng trên bờ nhìn xuống dòng sông, nơi có những con thuyền bồng bềnh trên mặt nước ít ai biết được trong những con thuyền kia là hàng chục con người đang vật vã trong cuộc mưu sinh. Nằm sát bờ là chiếc thuyền, và cũng là mái ấm của 5 con người trong gia đình chị Vũ Thị Huyền, năm nay đã 39 tuổi. “Gia đình tôi là hộ nghèo trong xóm, từ đời cha ông chúng tôi đã gắn bó với con thuyền, dòng sông và những lòng hồ mênh mang như thế này. Bây giờ đời con tôi cũng vậy! Và biết đâu đấy đến đời cháu tôi cũng vậy?”, chị Vũ Thị Huyền tâm sự.
Phía xa xa, trong những con thuyền lặng lẽ, thi thoảng xen vào giữa tiếng sóng nước là tiếng trẻ con khóc hiu hắt cả dòng sông. Tất cả những người dân hợp thành một xóm nổi lênh đênh trên lòng hồ này sống nhờ vào nguồn tôm, cá, ốc, hến mà con nước đục ngầu bùn của dòng sông mang lại.
Chiếc thuyền của chị Huyền, chỗ cư trú tạm bợ này của cả gia đình 3 thế hệ nhà chị chỉ vỏn vẹn chưa đầy 8m2. Trong không gian nhỏ hẹp ấy, đồ dùng sinh hoạt, quần áo, thức ăn đã gần như chiếm trọn. Chiếc ghe cũng già nua oằn mình lên dưới sức nặng của người bước lên nhưng vẫn cố gắng trụ với sông nước. Đứa con gái của chị Huyền đang cặm cụi lau dọn để lấy chỗ tiếp khách.
Ở xóm lòng hồ này, 24 hộ dân với hơn 60 nhân khẩu sống hòa hợp với nhau, cùng dựa vào thiên nhiên để tồn tại. Họ đến từ các vùng miền khác nhau: Cà Mau, An Giang, Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế, Hải Dương… Chiếm số đông ở xóm Điếu Ngư vẫn là dân các tỉnh miền Tây, miền sông nước.
Có đến 14 hộ trong làng đến từ An Giang, Long An, Cà Mau… Mỗi người một miền quê, nhưng cùng chung phận mưu sinh nơi xa lạ. Ở xóm Điếu Ngư, có những những gia đình gồm 2 – 3 thế hệ cùng sinh sống trên một chiếc ghe nhỏ như gia đình chị Huyền, anh Tánh, anh Thỏa… Cuộc sống của họ luôn bấp bênh theo con nước vơi đầy.
Hơn một trăm con người trú ngụ trên lòng hồ thủy điện nhưng không gian vô cùng tĩnh lặng, thi thoảng chỉ nghe những tiếng rì rầm, bất chợt lao xao trên mặt sông càng làm cho khung cảnh xóm lòng hồ thêm đìu hiu, buồn bã… Và điểm chung của họ là nghèo khó, không nghề nghiệp, không việc làm, bám theo lòng hồ thủy điện để tìm “lộc” tôm, cá. Tài sản của họ, ngoài căn nhà tạm là chiếc thuyền, mấy tấm lưới, gần như không còn gì khác.
Cuộc sống của người dân trên xóm lưng chừng hồ này ngày càng khó khăn. Tôm, cá trong hồ cạn kiệt nhưng người đánh cá đến đây ngày càng đông. Hầu như năm nào cũng có người đến cất chòi, gia nhập làng chài. Mỗi đêm, nếu may mắn thì kiếm được hơn 100.000 đồng. Số tiền ấy vừa đủ nuôi gia đình 5 miệng ăn. Đó là những người có kinh nghiệm, chứ nhiều người mới đến thì rất nhiều đêm vác lưới về không.
Bao giờ cho đến… ước mơ
“Bất kể là trời nắng hay mưa, người dân làng vạn chài đều lặn lội mưu sinh trên lòng hồ, họ coi hồ là sự sống, sự tồn tại của nhiều thế hệ gia đình hàng bao đời nay!”, anh Nguyễn Hữu Thản, chồng chị Huyền cũng là một dân vạn chài kiếm sống lâu năm trên lòng hồ thủy điện này cho biết. Thấy tôi cứ nhìn vào một cậu bé chừng 12 tuổi đang một tay chèo thuyền, một tay thả lưới rất thiện nghệ, chị Huyền chép miệng: “Nó là thằng Tuân, con trai ông Út Thành đó. Mùa lũ năm trước cha nó đi thả lưới dưới lòng hồ bị nước cuốn giờ chưa tìm thấy xác đó!”.
Nghe chị nói, tôi tìm sang “nhà” của cậu bé. Trên ngôi “nhà” ấy, một ông lão già cả có lẽ đã ở cái tuổi ngoài bảy mươi, mắt lòa đang ngồi gõ gõ vào mạn thuyền. Nghe tiếng người, ông ngẩng lên ngó chừng rồi nói: “Ai đó! Ai hỏi chi tui hả?”, rồi ông cụ lập cập mở dây lòi tói kéo thuyền sát vào bờ mời người khách lạ lên thuyền.
Anh Thành – con trai ông là con trưởng của dòng họ, cũng đã nối nghiệp ba đời tổ tiên làm nghề chài lưới trên sông, anh lấy vợ cũng trên dòng sông và con thuyền. Khi thằng Tuân, đứa cháu nội của ông mới được hơn 10 tuổi, anh Thành thường xuyên đưa con đi thả vó tôm, kéo lưới cá.
Nhưng trong một lần trời bất chợt nổi cơn lũ lớn, thuyền của cha con anh bị lật, con anh bị dòng nước dữ cuốn đi xa, anh lao theo đẩy được con bám vào một cây gỗ bên bờ thì anh đuối sức buông mình trôi theo dòng sông về hướng hạ lưu. Từ đấy đến nay đã hơn hai năm nhưng người ta vẫn chưa tìm thấy anh. Đôi mắt lòa của ông lão chấp chới buồn bã nhìn xa xăm: “Đúng là sống được nhờ sông mà chết cũng vì sông!”, ông lão đau đớn thốt lên.
Nước sinh hoạt với những người dân ở đây cũng trở thành một thứ xa xỉ. Họ phải mua nước với giá 10.000 đồng một can loại 20 lít. Nước mua này chỉ dùng để ăn uống, còn sinh hoạt và tắm rửa thì hướng thẳng ra sông. Họ dùng nước múc từ dòng sông đục ngầu, lắng phèn cặn rồi mới dùng được. Việc tắm giặt cũng múc nước sông lên dùng, ngay cả việc vệ sinh cá nhân cũng dựa vào dòng sông.
Khi vào mùa mưa lũ, giữ chiếc thuyền chỉ có một dây thừng được buộc vào gốc cây trên bờ, có “nhà” thì chỉ buộc vào một chiếc cọc nhỏ. Chị Hải thở dài: “Hôm nào mưa thì suốt đêm chỉ lo hứng dột và che chắn “nhà”, chứ cũng chẳng còn thời gian mà lo thuyền tuột dây trôi ra xa, vả lại ai cũng biết bơi hết rồi, đâu còn sợ sóng nước là chi! Chỉ tội cho lũ trẻ…”. Nhưng nhìn những dụng cụ bảo hiểm ấy cũng không ai dám chắc là nó thực sự an toàn đối với chiếc bè có đến 5, 6 người mỗi khi gặp trời mưa to gió lớn như thế này…
Xóm lòng hồ này chỉ đông vui, nhộn nhịp khi chiều xuống, bởi khi ấy lũ trẻ đi học về, người lớn sau một ngày dong thuyền ngược xuôi kiếm sống cũng trở về neo bến để đón lũ nhỏ lên “nhà”, thả mấy con vịt nhốt cả ngày trên thuyền cho xuống bãi sông kiếm ăn, rồi nhóm lửa trên thuyền nấu bữa cơm chiều… Phụ nữ, trẻ em lo tắm giặt, nấu nướng, đàn ông túm tụm lại trên một con thuyền chuyền tay nhau ly rượu để xua tan đi bao mệt nhọc của một ngày mưu sinh vất vả.
Chiều muộn, khi mặt trời đã xế bóng, bên chân con nước bập bềnh vỗ oàm oạp vào bờ, mấy đứa trẻ áo trắng khăn quàng đỏ rời trường học ở trung tâm xã ra bến sông. Tôi hỏi: “Nhà các cháu ở bên kia sông hả…?”. Mấy đứa nhỏ nhìn tôi ngơ ngác, cười hồn nhiên: “Đâu có, nhà tụi con ở đó…”, rồi chúng chỉ về phía mấy chục con thuyền đang im lìm cắm sào trên lòng sông. Từ trên cồn bãi, cách mép sông cả trăm mét, nhìn xuống khúc sông đã thấy những làn khói bay ra từ những con thuyền lan tỏa trên mặt sông buồn yên ả, bất giác làm tôi liên tưởng đến một xóm nhỏ nào đó khi chiều xuống.
Đã có bao nhiêu con người sinh ra, lớn lên trên những con sông này, họ đã sống cuộc sống khổ cực, quanh năm suốt tháng chỉ biết lao động bằng nghề chài lưới mà cha ông để lại, cứ thế đời con tiếp nối đời cha. Cái “cần câu cơm” để lại chỉ giúp họ tìm được con tôm, con cá trang trải cho cuộc sống hàng ngày nhưng chẳng đủ, và cứ thế nghèo khó nối tiếp nghèo khó, họ không thể tự quyết định được cuộc sống của mình. Họ mong muốn được thoát nghèo, nhưng cái ăn của họ còn chưa đủ thì ai dám nghĩ đến.
Chia tay với những cư dân xóm Điếu Ngư nơi lòng hồ Thủy điện Sêsan, tôi hiểu một điều nữa bởi họ lo lắng không biết lên bờ rồi thì làm gì để sống, rồi viễn cảnh quăng chài, thả lưới dưới lòng sông kiếm sống qua ngày lại hiện lên. Bước chân trên bờ rồi, tôi ngoái lại vẫn thất một người phụ nữ khẽ mở “cửa sổ” trên vòm mái thuyền, nhìn lên phía bờ sông có nhiều người đang đi lại nói chuyện tíu tít và ngước nhìn nơi có những mái nhà đỏ ngói mới. Ai cũng biết, một khi mà cuộc sống không ổn định thì có lẽ, lớp con, cháu của họ và xa hơn nữa cũng vẫn mãi… lênh đênh trên sông nước.