ThienNhien.Net – Thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên chính sách quản lý đến nay còn chưa hợp lý, chưa gắn kết trách nhiệm giữa doanh nghiệp thủy lợi với nông dân, giữa người quản lý với người được hưởng lợi từ công trình thủy lợi.
Lưu ý công trình ở khu vực quốc phòng
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ nay đến năm 2030 nhu cầu đầu tư cho thủy lợi khoảng 25 ngàn công trình. Đặc biệt cần có chiến lược quy hoạch, có hành lang pháp lý, chế tài cụ thể với các công trình ở khu vực trọng điểm quốc phòng, an ninh đảm bảo vừa phục vụ thủy lợi dân sinh, kết hợp với xây dựng khu vực phòng thủ.
ĐB Nguyễn Sỹ Hội (Nghệ An) chia sẻ, cha ông chúng ta cũng đã ý thức việc này rất sớm, ví dụ kênh Vĩnh Tế ở Đồng bằng sông Cửu Long được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX ngoài mục đích phục vụ nông nghiệp còn có vị trí rất quan trọng về quốc phòng. Bằng chứng là sau này trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam rất có giá trị về mặt chiến thuật tác chiến.
Hiện nay, nước ta đã có nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động kinh tế gắn với quốc phòng ở tầm vĩ mô như các bến cảng, sân bay, khu kinh tế, khu công nghiệp v.v… Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực về kinh tế dân sinh, công, nông, lâm trường, thủy lợi ở vùng biên giới, vùng ben biển chưa được quan tâm đứng mức.
Ngoài ra, theo ĐB Phạm Văn Tuân (Thái Bình), việc chú trọng đầu tư xây dựng mới, đầu tư công trình đầu mối mà chưa quan tâm đến đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa, hoàn chỉnh hệ thống dẫn đến thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác công trình thủy lợi. Cùng với đó, chính sách và phương thức quản lý, khai thác công trình thủy lợi còn mang tính nửa thị trường, nửa bao cấp, doanh nghiệp hoạt động chưa công khai, minh bạch.
Sản xuất của doanh nghiệp theo cơ chế bao cấp không tạo ra động lực để thúc đẩy, phát triển kinh tế, quản lý tài chính theo hình thức cấp phát thanh toán chưa ràng buộc chặt chẽ với cơ chế kiểm tra giám sát. Chính sách miễn giảm thuế thủy lợi, phí cho nông dân theo hình thức gián tiếp không gắn kết trách nhiệm doanh nghiệp với nông dân, với người được hưởng lợi từ công trình thủy lợi.
Vì vậy, để đảm bảo tính khả thi của dự thảo Luật Thủy Lợi, ĐB Phạm Văn Tuân đề nghị ban soạn thảo cần làm rõ một số nội dung, quy định về điều kiện, năng lực của doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi, về thẩm quyền quyết định việc chuyển giao công trình thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng.
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thủy lợi và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trực tiếp khai thác công trình thủy lợi. Điều kiện, tiêu chuẩn, tiêu chí lựa chọn đơn vị khai thác dịch vụ thủy lợi..
Chuyển từ phục vụ sang dịch vụ
Đó là quan điểm được nhiều ĐBQH tán thành khi thảo luận về dự án Luật Thủy lợi tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XIV vừa qua bởi quy định chuyển đổi cơ chế từ thu thủy lợi phí sang giá dịch vụ thủy lợi sẽ bảo đảm hiệu quả khai thác, sử dụng, giảm gánh nặng bao cấp từ ngân sách nhà nước, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội và nền kinh tế thị trường, làm thay đổi nhận thức của xã hội, người dân…
Đưa ra dẫn chứng về hiệu suất sản xuất nông nghiệp ở một số nước, ĐB Thạch Phước Bình (Trà Vinh) đưa ra dẫn chứng hiện nay tổng chi phí cho nông nghiệp của nông dân Việt Nam rất cao: 27 USD/tấn trong khi Thái Lan chỉ có 12 USD/tấn. Nghĩa là ở ta cao gấp 2,5 lần so với Thái Lan.
Tuy nhiên theo ĐB Thạch Phước Bình cũng cho rằng, quy định giá dịch vụ thủy lợi với sản xuất nông nghiệp sẽ mâu thuẫn với chủ trương, chính sách giảm, miễn thuế đất nông nghiệp nên dự thảo Luật cần làm rõ, nếu đã tính đến giá dịch vụ thủy lợi thì người dân có quyền chọn cây trồng gì hay không. Bởi điều này liên quan đến việc mua nước, sử dụng nước.
Với những công trình thủy lợi do người dân đóng góp kinh phí xây dựng thì họ có phải trả giá dịch vụ thủy lợi hay không, hoặc có được hoàn lại chi phí đã bỏ ra không? Trách nhiệm cơ quan làm dịch vụ thủy lợi khi có hạn hán, lũ lụt như thế nào? Trách nhiệm bồi thường…
ĐB Phạm Văn Tuân còn lưu ý, đây là quy định mới, chính sách mới, ảnh hưởng nhiều đến nhân dân. Trong khi đó, Quốc hội vừa ban hành nghị quyết miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Do đó, cần cân nhắc, nghiên cứu kỹ về tính khả thi của các chính sách, lộ trình áp dụng giá dịch vụ thủy lợi, cần có quy định phân loại khi áp dụng giá dịch vụ thủy lợi để chuyển biến tư tưởng về thủy lợi từ phục vụ sang dịch vụ.
Để tránh tình trạng né tránh, đùn đẩy và gây khó khăn cho người dân khi chịu ảnh hưởng của công trình thủy lợi, ĐB Cao Thị Giang (Quảng Bình) đề nghị quy định rõ thêm về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân nếu để xảy ra sự cố gây hậu quả nghiêm trọng đến môi trường, sức khỏe, đời sống của nhân dân, trách nhiệm đền bù khi có sự cố xảy ra.
Đồng thời bổ sung quy định việc phê duyệt và thẩm định quy hoạch phải lấy ý kiến các nhà khoa học và ý kiến người dân theo hướng công khai dân chủ, tạo niềm tin và sự đồng thuận khi triển khai thực hiện các dự án thủy lợi.
Đặc biệt, nhiều ĐBQH quan tâm đến trách nhiệm của người trực tiếp khai thác thủy lợi. Theo ĐB Nguyễn Hồng Vân (Phú Yên), dự thảo Luật không quy định trách nhiệm của người trực tiếp khai thác thủy lợi đền bù cho các tổ chức và cá nhân khi không thực hiện đúng dịch vụ trong hợp đồng này mà chỉ quy định tổ chức, cá nhân trực tiếp sử dụng dịch vụ thủy phải đóng tiền, góp công, góp sức để phục vụ cho công trình thủy lợi là không công bằng giữa người cung cấp dịch vụ và người hưởng dịch vụ.
Nhiều ĐB cho rằng, cần phải quy định tổ chức, cá nhân khi trực tiếp khai thác phải có trách nhiệm đền bù cho các tổ chức và cá nhân hưởng dịch vụ đó, nếu như không thực hiện đúng hợp đồng, mùa hạn không cung cấp được nước tưới thì phải đền bù, mùa lũ mà lũ làm thiệt hại vùng hạ du thì cũng phải tham gia đền bù.
Phải đền bù nếu lũ làm thiệt hại vùng hạ du
Một số ĐB cũng đồng tình với đề nghị mô hình đầu tư xây dựng khai thác công trình thủy lợi theo hướng đầu tư công, quản trị tư; đầu tư tư – quản trị công được đưa ra trong dự thảo. Theo đó, Nhà nước đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi thiết yếu và giao cho doanh nghiệp tư nhân quản lý, khai thác các công trình thủy lợi để nâng cao trách nhiệm của chủ quản lý công trình thủy lợi với chủ quản lý khai thác công trình thủy lợi khác. Để tách bạch chức năng quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp, một số ĐBQH đề nghị quy định rõ, cụ thể hơn về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân được lựa chọn khai thác công trình thủy lợi. Loại hình, quy mô công trình thủy lợi được giao cho doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân quản lý, khai thác. |