ThienNhien.Net – Thời gian qua, Việt Nam đã chứng kiến nhiều sự cố môi trường do hoạt động của con người và biến đổi bất thường của tự nhiên. Thực tế cho thấy, mặc dù đã có bước chuyển biến tích cực, song công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai nói chung vẫn còn bị động, lúng túng; việc khắc phục hậu quả còn chậm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, sức khoẻ và đời sống nhân dân. Bài viết này sẽ trình bày về các công cụ phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường, những khó khăn, bất cập cũng như các giải pháp cải thiện.
Các công cụ phòng ngừa, ứng phó với sự cố môi trường
Một trong những mục tiêu quản lý môi trường là phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường phát sinh trong hoạt động của con người hoặc biến đổi của tự nhiên. Bốn nhóm công cụ quản lý môi trường nói chung và phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường nói riêng bao gồm: công cụ chính sách và luật pháp; công cụ kinh tế; công cụ kỹ thuật; và công cụ giáo dục – truyền thông.
Công cụ chính sách và luật pháp bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia, các văn bản dưới luật, các kế hoạch liên quan đến phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, trong đó có kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố tràn dầu, kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất tại cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp…
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 300 công ước quốc tế liên quan đến các vấn đề BVMT. Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế liên quan đến phòng ngừa ứng phó sự cố và thiên tai sau: Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và việc tiêu huỷ chúng; Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển, MARPOL; Công ước của Liên Hợp Quốc về biến đổi môi trường; Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985; Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu phóng xạ, 1986, IAEA; Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng; Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985; Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987; Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng …
Về chính sách quốc gia, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị (số 36/CT.TW ngày 25/06/1998, số 29-CT/TW ngày 21/01/2009), nghị quyết (số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004, số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013) về tăng cường công tác quản lý môi trường, quản lý tài nguyên và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Các chỉ thị, nghị quyết này đã đề cập đến các chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường công tác phòng ngừa, ứng phó với sự cố, thiên tai. Nhiều luật và các văn bản dưới luật cũng đã đề cập đến vấn đề phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai. “Sự cố môi trường” đã chính thức được đưa vào Khoản 10, Điều 3 của Luật BVMT 2014 và được đề cập 37 lần trong đạo luật này cùng với các quy định về phòng ngừa và ứng phó (Khoản 1, Điều 108 và Khoản 1, Điều 109).
Bên cạnh đó, thời gian qua Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai, trong đó có kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố tràn dầu (Quyết định 02/2013/QĐ-TTg ngày 14/01/2013), kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất độc hại (Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 05/03/2013); Quy hoạch tổng thể lĩnh vực ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn (Quyết định số 1041/QĐ-TTg ngày 24/6/2014); Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Quy hoạch tổng thể lĩnh vực Ứng phó sự cố, thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn (Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 12/02/2015). Trên cơ sở đó các bộ ngành (Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Quốc gia tìm kiếm và cứu nạn…), các địa phương và doanh nghiệp cũng đã ban hành nhiều kế hoạch liên quan đến phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai.
Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí liên quan đến phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Một số công cụ kinh tế khác cũng có thể được áp dụng như giấy phép xả thải, ký quỹ môi trường, trợ cấp môi trường, đặt cọc hoàn trả. Các công cụ kinh tế quan trọng có thể kể đến như Luật Thuế BVMT 2010 tính trên 8 nhóm đối tượng; Nghị định 25/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 về nộp phí BVMT đối với nước thải; Quyết định số 18/2013/QĐ-TTg về cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công cụ trợ cấp môi trường thông qua Quyết định thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam (số 82/2002/QĐ-TTg ngày 26/6/2002); hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam (Quyết định 31/2014/QĐ-TTg ngày 05/5/2014); Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ làm cơ sở triển khai công cụ đặt cọc-hoàn trả.
Các công cụ kỹ thuật bao gồm quy hoạch môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, giám sát môi trường, tái chế, tái sử dụng và xử lý chất thải. Một số nghị định liên quan đến các công cụ kỹ thuật trong lĩnh vực BVMT nói chung, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường nói riêng cũng đã được ban hành, bao gồm các Nghị định 18/2015/NĐ-CP, 19/2015/NĐ-CP và 38/2015/NĐ-CP. Bộ TN&MT cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn triển khai các công cụ kỹ thuật như các Thông tư 26/2015/TT-BTNMT, 27/2015/BTNMT, 36/2015/TT-BTNMT, 19/2016/TT-BTNMT.
Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường bao gồm các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy; các quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề môi trường. Về chính sách liên quan, Nghị định 19/2015/TT-BTNMT đã quy định về việc cộng đồng tham gia vào công tác BVMT nói chung, phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai nói riêng.
Một số hạn chế và hướng khắc phục
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai, trong những năm qua, Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành nhiều văn bản chỉ đạo hướng dẫn liên quan. Hằng năm, các cơ quan, đơn vị tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch phòng, chống lụt bão, cháy nổ, cháy rừng và tìm kiếm cứu nạn phù hợp với thực tế; đồng thời, tổ chức huấn luyện, diễn tập và bảo đảm nhân lực, phương tiện kỹ thuật chu đáo để sẵn sàng ứng phó kịp thời, có hiệu quả với các tình huống sự cố, thiên tai. Khi xảy ra sự cố, các địa phương, doanh nghiệp đã thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ”, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng và địa phương, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Hiện nay, hệ thống trạm tìm kiếm cứu nạn đã được đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp theo hướng cơ bản, bền vững, bố trí hợp lý trên các vùng, miền, nhất là trên hướng biển và các địa bàn trọng điểm về thiên tai… Điều này tạo cơ sở vững chắc cho các đơn vị nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, sự cố và tìm kiếm cứu nạn, góp phần hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, BVMT, ổn định đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai hiện vẫn còn bị động, lúng túng; gây nhiều thiệt hại về người và tài sản; việc khắc phục hậu quả do sự cố và thiên tai còn chậm; gây ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, sức khoẻ và đời sống nhân dân. Nguyên nhân gây ra những hạn chế, yếu kém nêu trên bên cạnh lý do khách quan thì chủ yếu là do nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp còn chưa đầy đủ và thống nhất. Ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ và người dân chưa cao, còn coi trọng lợi ích kinh tế trước mắt, mà coi nhẹ công tác BVMT. Các chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được các cấp chính quyền quán triệt đầy đủ và cụ thể hóa kịp thời bằng các văn bản pháp luật. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật đã ban hành còn thiếu đồng bộ, chồng chéo và mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho công tác triển khai. Thậm chí có những văn bản ban hành thiếu chặt chẽ, chưa sát với thực tế nên không khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chất lượng lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án triển khai thực hiện công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố, thiên tai còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa xác định được các vấn đề cấp bách cần thực hiện kèm theo mục tiêu cần đạt được, nguồn lực cần đáp ứng; còn thiếu sự phân công, phân cấp, thiếu cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát, thanh tra nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
Nhằm nâng cao hiệu quả của các công cụ phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai trong thời gian tới, các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương tới địa phương cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây :
Thứ nhất, cần tăng cường áp dụng các công cụ chính sách và luật pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai; rà soát điều chỉnh những nội dung thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ, chồng chéo, mâu thuẫn và chưa sát với thực tế nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển; ban hành cơ chế phối hợp, phân công, phân cấp rõ ràng trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, cần đẩy mạnh triển khai các công cụ kinh tế nhằm kiểm tra, giám sát, thanh tra các hoạt động phát triển kinh tế xã hội có nguy cơ gây ra sự cố môi trường; huy động đủ nguồn lực tài chính đầu tư, hỗ trợ cho các hoạt động quản lý rủi ro sự cố và thiên tai; xử phạt nghiêm minh các tổ chức, cá nhân coi trọng lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ công tác BVMT; yêu cầu các tổ chức, cá nhân để xảy ra sự cố môi trường đền bù thỏa đáng đối với thiệt hại gây ra và chịu trách nhiệm cải tạo, phục hồi môi trường.
Thứ ba, tăng cường triển khai các công cụ kỹ thuật bao gồm quy hoạch môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch BVMT, phòng ngừa ứng phó sự cố và thiên tai; giám sát môi trường, tái chế, tái sử dụng và xử lý chất thải. Nâng cao chất lượng lập chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án triển khai thực hiện công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố, thiên tai; xác định rõ các vấn đề cấp bách cần thực hiện kèm theo mục tiêu cần đạt, nguồn lực cần đáp ứng, phân công và giám sát thực hiện.
Cuối cùng, cần đẩy mạnh triển khai các công cụ giáo dục và truyền thông môi trường nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các doanh nghiệp và người dân về công tác phòng ngừa, ứng phó sự cố và thiên tai; biến các nhận thức thành các hành động cụ thể góp phần chủ động ứng phó với các sự cố và thiên tai khi xảy ra.
PGS.TS. Phùng Chí Sỹ – Trung tâm Công nghệ Môi trường (ENTEC), Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
Tài liệu tham khảo:
- Luật Hóa chất 2007
- Luật BVMT 2014
- Luật Phòng, chống thiên tai 2015