Vận hành hồ, xả nước cho hạ du chưa đem lại hiệu quả chống hạn

ThienNhien.Net – Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa đối với 11 lưu vực sông lớn gồm sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Vu Gia – sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Kôn – sông Hà Thanh, sông Ba, sông Sê San, sông SrêPôc và sông Đồng Nai, đến thời điểm này có tổng số 67 hồ chứa, đập dâng phải vận hành theo quy định.

Việc đưa các quy trình vận hành trong mùa cạn vào triển khai trên thực tế đã mang lại hiệu quả, đáp ứng phần nào nhu cầu chống hạn của các địa phương.

Ảnh minh họa: PanNature

Hiệu quả bước đầu

Theo nhận xét của Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy, việc ban hành kịp thời 11 quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông có ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm sử dụng tổng hợp nguồn nước và phòng chống tác hại do nước gây ra. Đây là cơ sở pháp lý cho việc quản lý, sử dụng hiệu quả hơn nguồn nước của các hồ chứa thủy lợi, thủy điện; gắn chế độ vận hành của công trình với các yêu cầu về phòng, chống lũ và điều tiết nước dưới hạ du các hồ để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường của các địa phương trên các lưu vực sông lớn, quan trọng của nước ta.

Sau khi đưa vào vận hành, các hồ đã điều tiết nguồn nước đảm bảo cho việc cấp nước, góp phần giảm bớt tình trạng thiếu nước ở hạ du trong mùa cạn. Minh chứng là mùa khô 2015-2016, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, dòng chảy đến các hồ ở mức thấp lịch sử, song về cơ bản, các hồ trên 11 lưu vực sông đã vận hành theo quy trình, nên đã điều tiết, bổ sung một lượng nước tương đối lớn cho hạ du. Cụ thể tổng lượng nước mà các hồ chứa xả xuống hạ du 11 lưu vực sông là 65,3 tỷ m3, riêng khu vực miền Trung và Tây Nguyên các hồ đã xả xuống hạ du khoảng 17,4 tỷ m3, góp phần cấp nước cho các ngành sử dụng nước, giảm thiểu đáng kể tác động của El Nino.

Cần thêm sự giám sát đồng bộ và minh bạch

Hiện nay vẫn chưa có hệ thống giám sát hồ tự động, trực tuyến nên việc vận hành xả nước của các hồ chứa gây khó khăn cho công tác kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy trình. Hệ thống thông tin, dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo điều hành thiếu, không đồng bộ, đặc biệt là thiếu các trạm giám sát lưu lượng xả của các hồ chứa. Thực tế, các hồ chứa trong quy trình vận hành liên hồ chứa chỉ giải quyết được vấn đề thiếu nước, hạn hán ở hạ du trong một phạm vi nhất định của mỗi lưu vực. Trong khi hạn hán ở trên các lưu vực sông xảy ra chủ yếu ở các nhánh phụ lưu, không phụ thuộc vào sự ảnh hưởng, điều tiết của các hồ. Chính vì vậy, việc xả nước theo quy trình vẫn không thể giải quyết hạn cho toàn bộ lưu vực.

Trong các quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông đã quy định cụ thể chế độ vận hành, cơ chế phối hợp giữa các hồ, giữa các địa phương và trách nhiệm của địa phương, của các Bộ, ngành trong việc chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình của các chủ hồ, các cơ quan có liên quan. Thời gian qua, tuy có nhiều địa phương và các chủ hồ đã thực hiện rất tốt việc điều tiết, vận hành các hồ chứa, nhưng sự phối hợp giữa các bộ, ngành, một số địa phương chưa đồng bộ hoặc chỉ xử lý theo phạm vi từng địa phương mà chưa xem xét tính tổng thể cho cả lưu vực. Do đó việc vận hành hồ, xả nước cho hạ du chống hạn vẫn không đem lại hiệu quả như mong muốn.

Theo quy định, khi xảy ra hạn hán thiếu nước, chủ hồ phải xây dựng phương án điều tiết nước, báo cáo với địa phương và Bộ Tài nguyên và Môi trường để thống nhất phương án điều tiết nước phù hợp. Song trên thực tế ở một số địa phương, chủ hồ vẫn vận hành hồ theo theo yêu cầu của địa phương. Đó là chưa kể việc xả nước cứu hạn cho hạ du nhiều khi chủ hồ chỉ xin ý kiến qua điện thoại mà không gửi văn bản, dẫn đến khó khăn cho cơ quan quản lý khi tiến hành xử lý vi phạm. Do đó, để khắc phục những bất cập này, các bộ, ngành, địa phương cần rà soát, tuân thủ chặt chẽ hơn nữa các quy định liên quan đến trình tự, thẩm quyền, chế độ cung cấp thông tin báo cáo đã được quy định tương đối chặt chẽ trong các quy trình để đem lại hiệu quả cao nhất trong việc chống hạn cho hạ du.

Trong năm 2016, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phối hợp với Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm tra quy trình vận hành hồ chứa tại miền Trung – Tây Nguyên. Kiểm tra đột xuất việc thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa đối với công trình thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn, Sê San, SrePok, sông Ba và một số lưu vực sông khác. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông Cả, sông Mã, sông Hồng, sông Đồng Nai, sông Trà Khúc, sông Kôn – Hà Thanh và sông Hương. Kết quả cho thấy, về cơ bản các hồ chứa đã vận hành tuân thủ tương đối chặt chẽ các quy định về lưu lượng, thời gian xả nước. Tuy vậy, do ảnh hưởng của hạn hán nên một số hồ đã phải giảm lưu lượng xả xuống hạ du để đảm bảo cân đối, có nước cấp cho hạ du các hồ chứa trong cả mùa hạn, dẫn đến một số hồ chứa chưa đảm bảo được yêu cầu về lưu lượng và thời gian xả như quy định của quy trình.

Để khắc phục những bất cập trên, ngoài việc thành lập các đoàn thanh tra trực tiếp, để giám sát việc thực hiện quy trình, hàng ngày, Cục Quản lý tài nguyên nước đã yêu cầu các đơn vị vận hành hồ cung cấp toàn bộ thông tin, số liệu vận hành hồ cập nhật lên chuyên trang quanly/dwrm.gov.vn/hochua. Qua đó, Cục có thể nắm bắt tình hình xả nước của từng hồ để quản lý và có giải pháp chỉ đạo kịp thời. Nhờ có chuyên trang này, số liệu tại 67 hồ chứa trên 11 lưu vực sông đã được đồng bộ giúp cho công tác quản lý, giám sát được thuận lợi và hiệu quả hơn.

Hiện trang web này đang được thí điểm tại Cục Quản lý tài nguyên nước, tới đây sẽ hoàn thiện và chuyển giao về cho địa phương. Cục cũng sẽ tiến hành nâng cấp trang web hiện đại hơn đáp ứng nhu cầu thực tế, giám sát được việc xả nước của từng hồ ở các thời điểm khác nhau. Đồng thời xây dựng Thông tư quan trắc giám sát tài nguyên nước, trong đó yêu cầu lắp đặt thiết bị về giám sát khai thác sử dụng nước mặt, nước dưới đất, xả nước thải, đặc biệt là giám sát hồ chứa. Mặt khác, Cục phối hợp với các cơ quan chức năng ở Trung ương và địa phương rà soát, đánh giá lại các quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế nguồn nước, khai thác, sử dụng cũng như ứng phó hiệu quả hơn với biến đổi khí hậu.