ThienNhien.Net – Việt Nam, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ hơn 20 năm trước đã được cảnh báo là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH).
Theo kịch bản phát thải cao thì cuối thế kỷ 21, toàn dải ven biển Việt Nam có nước biển dâng trong khoảng từ 57-73 cm, khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang là nơi có mực nước biển tăng nhiều nhất – đến 105 cm. Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) ước tính Việt Nam có thể mất đến 2,5 triệu ha đất và 10 triệu dân buộc phải di cư. Bộ TNMT ước tính riêng ĐBSCL có thể mất 39% diện tích do ngập nước và xâm nhập mặn. Cần lưu ý rằng kịch bản nói trên còn chưa tính đến tác động của hàng chục đập thuỷ điện, hàng trăm hồ chứa đã, đang và sẽ được xây dựng trên các dòng chính, dòng nhánh của sông Mê Kông, góp phần không nhỏ vào quá trình này. Đặc biệt, những gì diễn ra trong đợt hạn hán năm qua ở ĐBSCL đã cho thấy tác động của BĐKH có thể đến nhanh hơn và nghiêm trọng hơn những gì ta tưởng.
Không cần phải đợi đến cuối thế kỷ, hàng triệu người dân ĐBSCL đã phải đối mặt với một thời kỳ hạn hán nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm qua. Người dân trồng lúa, trồng cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản đứng trước nguy cơ bị mất sinh kế, mất việc làm, mất thu nhập và rất có thể sẽ bị buộc phải trở thành dân tị nạn môi trường, những người buộc phải di cư kiếm sống do không thể canh tác trên chính mảnh đất của mình.
Tị nạn môi trường
Tị nạn môi trường được Giáo sư Essam El-Hinnawi, Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia (Cairo), định nghĩa là tình trạng “những người buộc phải rời môi trường sống truyền thống tạm thời hoặc mãi mãi vì môi trường bị phá hủy (do thiên nhiên hoặc con người gây ra) khiến cho sự tồn tại của họ gặp nguy hiểm, và/ hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống của họ”.
Di dân không phải là hiện tượng mới trong lịch sử loài người. Tuy nhiên, trong quá khứ, khi biên giới quốc gia và các loại địa giới hành chính còn mờ nhạt và tài nguyên thiên nhiên còn phong phú, việc di cư diễn ra có vẻ dễ dàng hơn, không gây ra nhiều xáo trộn trong cả cộng đồng di cư lẫn cộng đồng tiếp nhận di cư. Các cộng đồng di cư thậm chí có thể dễ dàng tìm lại các loại sinh kế quen thuộc tại vùng đất mới và nơi ở mới có thể trở thành quê hương mới. Trong khi đó, di dân ngày nay có diện mạo khác rất nhiều so với trước đây vì nhiều nguyên do. Thứ nhất, số lượng người trong mỗi làn sóng di cư có thể lên đến hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người. Thứ hai, do sự hạn chế của các biên giới hành chính và cơ hội sử dụng tài nguyên hay cơ hội việc làm, người di cư không có nhiều lựa chọn về điểm đến. Thứ ba, cho dù có được chính quyền địa phương hay cộng đồng tiếp nhận hỗ trợ thì việc khôi phục các loại sinh kế cũ, quen thuộc là rất khó khăn. Các cộng đồng di cư sẽ phải đối mặt với một giai đoạn chuyển tiếp đầy khó khăn đến mức “không thể tưởng tượng được nếu không trực tiếp sống trong hoàn cảnh đó” (World Vision, 2003).
Các nghiên cứu của WB, UNDP, UNEP, UNHCR và rất nhiều trường đại học trên thế giới ước tính trên toàn thế giới thường xuyên có khoảng 25 triệu người đang di chuyển từ nơi này sang nơi khác vì những lý do liên quan đến môi trường, 50 triệu người đã mất nơi cư trú do thảm hoạ thiên tai như bão, lũ lụt và động đất, 90 triệu người bị tái định cư do các công trình, dự án hạ tầng. Những con số này không hề có xu hướng giảm mà sẽ tăng lên rất nhanh trong những thập kỷ tới do tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu, biến đổi khí hậu và nước biển dâng trước năm 2050.
Di dân và tị nạn môi trường tại Việt Nam
Tại Việt Nam, chúng ta hiếm khi sử dụng khái niệm tị nạn môi trường, một mặt có lẽ do tính nhạy cảm của từ “tị nạn”, mặt khác, do chúng ta cho rằng việc thay đổi chỗ ở của các cộng đồng dân cư trong nước thường là có kế hoạch và được kiểm soát. Chính vì vậy, khái niệm thường được sử dụng là “tái định cư” hoặc được gọi chung là “di cư”.
Rất khó để thống kê cụ thể số lượng người Việt Nam di cư trong nước. Cuộc điều tra có quy mô lớn nhất – tổng điều tra dân số và nhà ở của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009) cũng chỉ thống kê những trường hợp được ghi nhận qua hệ thống đăng ký hộ khẩu và tạm trú. Theo kết quả điều tra, trong vòng 5 năm, từ 2004 đến 2009, Việt Nam có 6,6 triệu người di cư trong nước trên tổng số 85.789.573 dân. Đến năm 2013, cả nước có 1.790.374 người di cư, tăng 33% so với trung bình giai đoạn 2004-2009. Nếu như vào năm 1999, tính trung bình cứ 1.000 dân thì có 29 người di cư thì đến năm 2009 tỷ lệ này là 43 người di cư trên 1.000 dân. Tuy nhiên, nếu nhìn vào tỷ lệ dân nhập cư hoặc người ngoại tỉnh ở các thành phố lớn hoặc các đô thị có khu công nghiệp, có thể ước tính rằng số người di cư còn cao hơn nhiều so với con số thống kê nói trên.
Nguyên nhân di cư chính được xác định là vì lý do kinh tế. Ở đầu đi, lực đẩy chủ yếu là do nông dân mất mối liên kết với ruộng đất một phần do quá trình thương mại hóa, do cơ giới hóa nông nghiệp dẫn đến tình trạng nông dân thiếu việc làm, do thu nhập từ các loại sinh kế truyền thống dựa vào đất và tài nguyên thiên nhiên không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, phần khác do thiên tai và các dự án hạ tầng. Ở đầu đến, lực kéo là cơ hội việc làm và thu nhập từ các khu kinh tế ở thành phố.
Tuy nhiên, còn có một bộ phận không nhỏ người dân buộc phải di cư vì không còn lựa chọn khác, thường là bị tái định cư do thiên tai (như trường hợp tái định cư để tránh lũ ở ĐBSCL) và do các dự án hạ tầng lớn (như thuỷ điện, hồ chứa, cầu đường …). Lại có những trường hợp người dân bị tái định cư nhiều lần do dự án chồng dự án hoặc do tác động không lường trước của các dự án thuỷ điện. Chẳng hạn như việc tích, xả nước của các hồ thuỷ điện ở lưu vực Vu Gia – Thu Bồn đã thay đổi dòng chảy và dẫn đến hiện tượng sạt lở quy mô lớn khiến các thôn, làng ven sông phải di dời vào sâu hơn. Trong trường hợp này, người dân thường được xếp vào nhóm di cư trong tỉnh và tương tự như trên, việc thống kê đầy đủ số dân bị tái định cư cũng gặp khó khăn. Với một công trình thuỷ điện lớn cỡ Sơn La (2.400 MW) đã có 20.340 hộ, 92.301 nhân khẩu thuộc 3 tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu bị tái định cư. Nếu tính cả số hộ bị tái định cư theo dự án đường tránh ngập Mường Lay-Nậm Nhùn, con số này lên đến 20.477 hộ. Nếu tính số hộ và tổ chức bị ảnh hưởng, con số sẽ là 40.000 hộ và 232 trụ sở tổ chức. Trong khi đó, trên 10 hệ thống sông ngòi chính ở nước ta có đến 7.500 nhà máy thủy điện, đập dâng, hồ chứa, công trình thủy lợi[1]. Số dân bị tái định cư, theo đó, là rất lớn.
Tái định cư thuỷ điện hoặc tránh lũ, ở một chừng mực nhất định, có thể được xem là di dân có kế hoạch. Hàng trăm nghìn tỷ đồng được chi ra để hỗ trợ các chương trình tái định cư trên cả nước bao gồm tiền bồi thường, xây dựng hạ tầng ở các khu, điểm tái định cư, hỗ trợ phát triển sản xuất v.v… Mặc dù vậy, hầu như chưa có một chương trình tái định cư nào được xem là thực sự thành công. Theo báo cáo 1483/BC-BNN-KTHT của Bộ NN và Phát triển Nông thôn, chỉ tính riêng 21 dự án thủy điện ở 12 tỉnh được khảo sát đã có khoảng 75.028 hộ dân với 324.606 khẩu đã phải di dời. Trong khi đó, thu nhập bình quân của người dân tái định cư do thủy điện năm 2012 chỉ là 7,1 triệu đồng/người/năm, chưa bằng 30% thu nhập bình quân chung của cả nước; tỷ lệ hộ nghèo bình quân các hộ dân tái định cư do thủy điện chiếm 36,6%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 10%.
Khó khăn lớn nhất trong tất cả các chương trình tái định cư là đảm bảo sinh kế tại nơi ở mới. Những người dân bị tái định cư thường không đủ điều kiện, cả về vốn tích luỹ được, cả về quan hệ và kỹ năng để tìm kiếm cơ hội ở các đô thị lớn và thường sống dựa vào đất đai, tài nguyên ở nơi cư trú cũ. Khi bị tái định cư, đa phần người dân phải di chuyển đến vùng có điều kiện canh tác, sản xuất khác biệt, tài nguyên được cung cấp thường kém rất nhiều, đòi hỏi người dân phải làm quen với tập quán canh tác mới. Điều này làm giảm thu nhập kể cả bằng tiền lẫn sản phẩm thu được, gây bất ổn về an ninh lương thực và hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội phải trả phí trong một thời gian dài. Những thách thức khác có thể bao gồm sự thay đổi về không gian văn hoá, xung đột xã hội với người dân bản địa, nhà ở không phù hợp tập quán… Nếu chiếu theo định nghĩa được thừa nhận rộng rãi về tị nạn môi trường, một bộ phận đáng kể cư dân tái định cư trong những năm qua có thể được xem là tị nạn môi trường.
Bất ổn về môi trường ở ĐBSCL
Nhờ có lượng trầm tích lớn hơn nhiều so với đại đa số các con sông trên thế giới, con sông Mê Kông đóng vai trò cực kỳ quan trọng không chỉ trong việc bồi đắp hệ sinh thái mà còn trong việc định hình các yếu tố văn hoá, xã hội và kinh tế của ĐBSCL. Với hơn 300 loài cá và nhiều loài thuỷ sinh khác, lưu vực sông Mê Kông được xem là một vùng sinh thái đặc biệt đa dạng và phong phú với nguồn thủy hải sạn mang lại nguồn lợi kinh tế lớn và quan trọng của cư dân ĐBSCL. Không những thế, ĐBSCL là vùng đất màu mỡ, giàu dinh dưỡng do luôn được một lượng lớn phù sa bồi đắp, được các cơn lũ hàng năm “lọc rửa” thường xuyên, tiêu diệt các loại côn trùng có hại. Chính vì vậy, từ lâu, ĐBSCL đã được xem là vựa lúa, vựa trái cây của cả nước. Tuy nhiên, hiện nay ĐBSCL đang đứng trước những mối đe dọa nghiêm trọng không chỉ từ biến đổi khí hậu mà còn cả từ hoạt động phát triển của con người.
Đợt hạn hán lớn nhất trong vòng 100 năm qua tại ĐBSCL đang tạo ra những thay đổi rất tiêu cực. Cả vùng đồng bằng đã ở trong tình trạng thiếu nước ngọt nghiêm trọng, dẫn đến xâm ngập mặn trên diện rộng ở tất cả các tỉnh, gây thiệt hại nặng nề đến các ngành nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản – vốn là thế mạnh của vùng đồng bằng vốn phát triển dựa vào độ màu mỡ và giàu có của tài nguyên thiên nhiên. Số liệu từ Bộ NN&PTNT cho thấy xâm ngập mặn đi sâu vào nội địa đến 60km, cá biệt có chỗ lên đến 90km. Hơn 300.000 ha lúa, hoa màu bị thiệt hại nặng nề. Thuỷ sản chết trên hàng nghìn ha mặt nước nuôi trồng.
Bên cạnh nguyên nhân El Nino khiến mùa mưa đến muộn, ít nước và chấm dứt sớm, ĐBSCL còn chịu ảnh hưởng từ các đập thuỷ điện được xây dựng trên vùng thượng lưu, giữ lại lượng nước và phù sa vốn đã ít ỏi. Theo ước tính của Uỷ ban sông Mê Kông, lượng phù sa đổ về ĐBSCL cách đây 30 năm là trên dưới 160 triệu tấn/năm (MRC, 2010). Lần khảo sát gần nhất cho kết quả 75 triệu tấn/năm. Riêng giai đoạn 1992-2014, lượng trầm tích giảm gần một nửa. Hậu quả là hàng loạt các thay đổi nghiêm trọng đang xảy ra ở khu vực này: đáy sông sâu hơn, tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa; bờ sông, ven biển sạt lở với cường độ cao gây mất nhà cửa, đất sản xuất, phá hỏng đường xá. ĐBSCL đang chìm dần và sạt lở với tốc độ cao. Bên cạnh đó, khai thác cát quá mức cũng được xác định là nguyên nhân chính làm xói sâu lòng sông Mê Kông và Bassac (Bravard, J. P. et al, 2013).
Không thể nói chúng ta không có chuẩn bị gì cho việc ứng phó với các loại bất ổn về môi trường ở ĐBSCL. Từ năm 2009, trên cơ sở tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, Bộ TN&MT đã xây dựng và công bố kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam. Vào tời điểm đó, mức độ chi tiết của các kịch bản mới chỉ giới hạn cho 7 vùng khí hậu và dải ven biển Việt Nam. Năm 2012, Bộ tiếp tục xây dựng và công bố Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam. Tài liệu này vẫn đang được tiếp tục cập nhật và là nguồn thông tin tham khảo quan trọng cho các Bộ, ngành và chính quyền địa phương trong việc xây dựng kế hoạch ứng phó, trong đó có kế hoạch di dân. Chiến lược Quốc gia Phòng chống và Giảm nhẹ Thiên tai đến năm 2020 (2007) và Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi khí hậu (2008) đều có đưa ra một số định hướng cho việc di dời, sắp xếp và ổn định đời sống nhân dân vùng thường xuyên bị thiên tai và vùng dễ tổn thương với những biến đổi có hại và nguy hiểm của môi trường. Tại ĐBSCL, các giải pháp tái định cư dân vùng lũ vào các tuyến và cụm dân cư đã được thực hiện từ khá sớm – năm 1996. Sau năm 2000, giải pháp bắt đầu chuyển dần sang những phương án sống chung với lũ.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng các chính sách, kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu tại ĐBSCL trong thời gian qua vẫn thiên về ứng phó với vấn đề thừa nước và tái định cư tại chỗ chứ chưa có các định hướng mang tính chiến lược và phương án cụ thể để ứng phó với hạn hán và nguy cơ di dân ồ ạt từ nông thôn lên các đô thị lớn để tìm liếm việc làm và sinh kế thay thế.
Nguy cơ tị nạn môi trường ở ĐBSCL và giải pháp kiến nghị
Các vấn đề môi trường, cả do thiên nhiên gây ra lẫn do con người tạo thành, đang tạo ra những nguyên nhân trực tiếp của tị nạn môi trường, đặt hàng triệu người dân vào nguy cơ trở thành dân tị nạn môi trường.
Người dân ĐBSCL đã di cư kiếm việc làm từ các tỉnh miền Tây sang các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ nhiều năm qua, tuy nhiên, chỉ ở quy mô vừa phải. Nghiên cứu của TS Lê Thanh Sang, phó viện trưởng viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ cho thấy trong số hơn 900.000 người di cư từ ĐBSCL đến các vùng khác (điều tra dân số năm 2004 – 2009) thì có hơn 77% chọn điểm dừng là TP.HCM và miền Đông Nam bộ. Một nghiên cứu khác được thực hiện sau vài năm thống kê con số xuất cư ròng ra khỏi các tỉnh miền Tây bùng nổ trong các năm 2009-2011, lên đến mức 8,4% trong 2 năm 2009-2010 và tiếp tục ở mức 6,5% trong năm 2011 (Võ Hùng Dũng, 2015).
Đợt hạn lịch sử 2016 có thể sẽ gây ra một làn sóng di cư mới, vẫn từ miền Tây sang miền Đông, với quy mô lớn hơn rất nhiều. Điều đáng lưu ý, những người tham gia vào đợt di cư mới này chưa được chuẩn bị đầy đủ cho việc tìm kiếm sinh kế mới. Trong số 10,4 triệu lao động trong vùng, chỉ có 10,4% lao động được đào tạo.
Làn sóng di cư mới sẽ tạo áp lực lên cả nơi đi lẫn nơi đến. Ở nơi đi, việc di dân ồ ạt của nhóm dân cư trẻ và có sức lao động sẽ gây nên tình trạng thiếu hụt lao động và gây khó khăn càng lớn hơn cho việc phục hồi sản xuất ở những vùng bị hạn hán, ngập mặn. Ở nơi đến, cơ hội việc làm không đủ cho lao động phổ thông. Các dịch vụ như y tế, giáo dục, an sinh xã hội chưa được chuẩn bị để tiếp nhận một lượng lớn dân di cư. Hậu quả là nhóm di cư sẽ trở thành nhóm dễ bị tổn thương nhất trong cuộc sống đô thị, ít được bảo vệ, tiền lương được trả không tương xứng với sức lao động, khó tiếp cận các dịch vụ nhà ở xã hội nên sống trong môi trường chật hẹp, ô nhiễm và không được chăm sóc sức khỏe tốt khi ốm đau vì không có bảo hiểm y tế.
Các giải pháp tức thời như chính sách hỗ trợ hay cứu trợ đối với các cộng đồng bị thiên tai tác động không thể giúp giải quyết vấn đề tị nạn môi trường. Trong lúc làn sóng di cư vì môi trường chưa bùng phát, các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng ngay các giải pháp mang tính chiến lược và dài hạn, có tính đến các yếu tố sau:
· Cần xem xét lại các kịch bản biến đổi khí hậu, làm cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch, chiến lược di dân, tái định cư có tổ chức và các chính sách hỗ trợ tương ứng. Vấn đề di cư và tái định cũng như các biện pháp tăng cường thích ứng với biến đổi khí hậu cần được lồng ghép vào chính sách, chiến lược, quy hoạch ở trung ương và địa phương, kể cả địa phương nơi đi và địa phương nơi đến.
· Đẩy mạnh thực hiện các chương trình của quốc gia và của tỉnh để cải thiện điều kiện sống, giải pháp sinh kế và khả năng chống chịu cho người di cư, tái định cư, cộng đồng di dời và cộng đồng tiếp nhận tái định cư.
· Thực hiện các nghiên cứu cần thiết để đưa ra các mô hình sinh kế mới, phù hợp với điều kiện hạn hán, thiếu nước…
· Thông qua các kênh ngoại giao để xây dựng và thực hiện một cơ chế chia sẻ nguồn nước một cách hợp lý giữa các quốc gia vùng Mê Kông mở rộng, bao gồm cả Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam, trong đó có vấn đề xây dựng, vận hành các công trình thuỷ lợi, hồ chứa và thuỷ điện một cách có trách nhiệm.
Trần Lê Trà/WWF Việt Nam
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Báo cáo số 1483/BC-BNN-KTHT về Kết quả, tồn tại và bất cập trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi xây dựng các dự án thủy điện, 2013.
2. World Vision (WV). 2003. Refugees and Displaced People: In Search of Safety. www.worldvision.com.au/ resources/files/refugees_0311.pdf
3. Emmanuel K. Boon and Tran Le Tra. 2007. Are environmental refugees refused? Stud. Tribes Tribals, 5(2): 85-95 (2007)
4. Việt Nam có 7.500 nhà máy thủy điện, hồ chứa trên sông. http://www.tienphong.vn/xa-hoi/vn-co-7500-nha-may-thuy-dien-ho-chua-tren-song-595804.tpo
5. Mekong River Commission. Basin Development Plan Programme, Phase 2: Assessment of Basin-wide Development Scenarios. Mekong River Comm., 1 (Main Report) (2011)
6. UNDP. 2014. Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
7. Bộ TN-MT. 2012. Kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam.
Bravard, J. P., Goichot, M. & Gaillot, S. Geography of sand and gravel mining in the Lower Mekong River. First survey and impact assessment. EchoGéo. URL: http:// echogeo.revues.org/13659, doi: 10.4000/echogeo.13659 (2013).
[1] http://www.tienphong.vn/xa-hoi/vn-co-7500-nha-may-thuy-dien-ho-chua-tren-song-595804.tpo