ThienNhien.Net – Trong Báo cáo về việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) cấp quốc gia do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày trước Quốc hội chiều 21/3, có đề nghị dùng gần 11.000ha đất làm 96 sân golf.
Cụ thể, với nhóm đất nông nghiệp, đến năm 2020, diện tích nhóm đất nông nghiệp là 27.038,09 nghìn ha, tăng 306,33 nghìn ha so với Nghị quyết của Quốc Hội, trong đó một số loại đất trong nhóm đất nông nghiệp như sau:
Đối với đất trồng lúa, theo Nghị quyết của Quốc Hội, giai đoạn 2016 – 2020 đất trồng lúa được phép giảm 218,31 nghìn ha (trong đó, đất chuyên trồng lúa nước được phép giảm 53,47 nghìn ha).
Trên cơ sở xem xét, cân đối kết quả thực hiện và đề xuất nhu cầu của các địa phương, đến năm 2020 đất trồng lúa của cả nước còn 3.760,39 nghìn ha, giảm 270,36 nghìn ha so với năm 2015 (giảm 52,04 nghìn ha so với Nghị quyết của Quốc Hội). Trong đó, đất chuyên trồng lúa nước là 3.128,96 nghìn ha, giảm 146,42 nghìn ha so với năm 2015 (giảm 92,95 nghìn ha so với Nghị quyết của Quốc Hội).
Ngoài ra, trong 3.760,39 nghìn ha đất trồng lúa, cho phép khoảng 400 nghìn ha được quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhưng được bảo vệ, không làm mất các điều kiện phù hợp để khi cần thiết vẫn trồng lúa trở lại được, nhằm mục tiêu vừa nâng cao hiệu quả sử dụng đất, vừa duy trì quỹ đất trồng lúa.
Về đất rừng phòng hộ, năm 2015, diện tích rừng phòng hộ có 5.648,99 nghìn ha, trong đó có khoảng 3.939 nghìn ha rừng tự nhiên, trên 626 nghìn ha rừng trồng, còn lại là diện tích đất khoanh nuôi, quy hoạch để trồng rừng.
Trong giai đoạn 2016-2020 sẽ bảo vệ nghiêm ngặt khoảng trên 4.400 nghìn ha diện tích rừng hiện có; phục hồi và trồng mới khoảng 240 nghìn ha. Trong đó, khu vực ven biển sẽ bảo vệ 310 nghìn ha đất có rừng, phục hồi gần 10 nghìn ha và trồng mới 46 nghìn ha rừng phòng hộ ven biển để chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu tại các khu vực rất xung yếu và xung yếu. Đồng thời, giai đoạn này chuyển khoảng 100 nghìn ha rừng phòng hộ sang rừng đặc dụng để thành lập các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan.
Trên cơ sở điều tra, đánh giá chung về rừng phòng hộ, giai đoạn 2016- 2020 sẽ chuyển khoảng 1.100 nghìn ha là diện tích đất quy hoạch để trồng, khoanh nuôi rừng phòng hộ tại các khu vực ít xung yếu để phát triển rừng sản xuất thuộc các vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng một cách bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, góp phần giải quyết việc thiếu đất sản xuất của người dân, đồng thời từng bước khắc phục tình trạng di cư tự do không kiểm soát được như hiện nay.
Về đất rừng đặc dụng, đến năm 2020 cả nước có 176 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích 2.462,31 nghìn ha, trong đó có 2.358,87 nghìn ha đất rừng đặc dụng, tăng 87,67 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội, còn lại 103,44 nghìn ha mặt nước ven biển, núi đá và đất khác ngoài lâm nghiệp được quy hoạch vào hệ thống các khu rừng đặc dụng.
Đối với đất rừng sản xuất, đến năm 2020, diện tích đất rừng sản xuất là 9.267,94 nghìn ha, điều chỉnh tăng 1.135,82 nghìn ha so chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội, do một phần diện tích rừng phòng hộ chuyển sang rừng sản xuất, đồng thời tăng diện tích khoanh nuôi, bảo vệ và trồng mới hệ thống rừng sản xuất.
Đến năm 2020 diện tích đất quốc phòng của cả nước là 340,96 nghìn ha, điều chỉnh giảm thêm 47,07 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (388,03 nghìn ha) do rà soát, xác định lại nhu cầu sử dụng đất quốc phòng.
Đến năm 2020, đất an ninh của cả nước là 71,14 nghìn ha, điều chỉnh giảm 10,70 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (81,84 nghìn ha) do rà soát, xác định lại nhu cầu sử dụng đất an ninh.
Về đất khu công nghiệp, chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội đến năm 2020, là 200 nghìn ha. Sau khi cân đối giữa kết quả thực hiện, nhu cầu của các địa phương và kết quả rà soát, điều chỉnh các khu công nghiệp, Chính phủ đề xuất đến năm 2020 đất khu công nghiệp là 191,42 nghìn ha (giảm 8,59 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội).
Đất giao thông, đến năm 2020, đất giao thông của cả nước sẽ là 779,10 nghìn ha (không bao gồm diện tích đất hành lang giao thông), tăng 87,91 nghìn ha so với năm 2015 và cao hơn 22,10 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (757,00 nghìn ha).
Đến năm 2020, đất thủy lợi của cả nước sẽ là 436,54 nghìn ha, tăng 22,71 nghìn ha so với năm 2015 và cao hơn 3,54 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (433,00 nghìn ha), đất thủy lợi tăng thêm chủ yếu để xây dựng hệ thống đê biển nhằm chủ động ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Đất cơ sở văn hóa, đến năm 2020 sẽ là 27,82 nghìn ha, cao hơn 7,39 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (20,43 nghìn ha).
Đất cơ sở y tế, đến năm 2020 sẽ là 10,98 nghìn ha, cao hơn 0,91 nghìn ha so với chỉ tiêu của so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (10,07 nghìn ha).
Đất cơ sở giáo dục – đào tạo đến năm 2020 sẽ là 68,48 nghìn ha, thấp hơn 13,31 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (81,77 nghìn ha).
Đất cơ sở thể dục – thể thao đến năm 2020 sẽ có 46,81 nghìn ha, cao hơn 2,05 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (44,76 nghìn ha). Trong số 46,81 nghìn ha đất cơ sở thể dục – thể thao có 10,98 nghìn ha thuộc 96 sân golf. Việc quy hoạch phát triển sân golf chủ yếu tại các khu vực đất có chất lượng kém, đất cát, đất chưa sử dụng; không sử dụng vào đất trồng lúa, đất màu, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
Đến năm 2020 đất di tích lịch sử – văn hóa và danh lam, thắng cảnh là 35,19 nghìn ha, cao hơn 7,47 nghìn ha so với chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc Hội (27,72 nghìn ha).
Về chỉ tiêu quy hoạch một số loại đất sử dụng đa mục đích, đến năm 2020 cả nước có 3 khu công nghệ cao với diện tích là 3,63 nghìn ha.
Đến năm 2020 cả nước sẽ có 42 khu kinh tế, gồm 16 khu kinh tế ven biển và 26 khu kinh tế cửa khẩu, với tổng diện tích 1.582,97 nghìn ha.
Đến năm 2020, đất đô thị của cả nước sẽ là 1.941,74 nghìn ha, tăng 299,32 nghìn ha so với năm 2015 (riêng đất ở tại đô thị có 199,13 nghìn ha, chiếm 10,25% đất đô thị, bình quân có 50m2 đất ở tại đô thị/người).