ThienNhien.Net – Trong những năm gần đây, mặc dù đầu tư vào lĩnh vực thoát nước và xử ký nước thải đòi hỏi lượng vốn đầu tư rất lớn nhưng đa phần các đô thị lớn và vừa đều đã có dự án thoát nước và vệ sinh môi trường với quy mô khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống thoát nước đô thị được đầu tư qua nhiều thời kỳ khác nhau, nhiều công trình đã xuống cấp, khả năng tiêu thoát kém, gây ô nhiễm môi trường.
Hiện trạng thoát nước thải đô thị
Hệ thống thoát nước đô thị chủ yếu là hệ thống cống chung. Chỉ có một số khu vực nhất định trong đô thị đầu tư hệ thống thoát nước thải riêng như: Đà Lạt, Buôn Ma Thuột hoặc Phú Mỹ Hưng ( TP HCM).
Đến tháng 7/2015, cả nước có khoảng 30 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi vào hoạt động với tổng công suất thiết kế 809.000m3/ngđ, và có khoảng 40 nhà máy đang trong giai đoạn thiết kế hoặc xây dựng với tổng công suất 1.600.000 m3/ngđ.
Mặc dù các nhà máy đã đi vào hoạt động nhưng thực tế chỉ vận hành chưa tới 50% công suất thiết kế, tỷ lệ đấu nối vào hệ thống thoát nước khoảng 65%. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý khoảng 12% (các dự án hoàn thành đạt khoảng 15% ở các đô thị loại 3 trở lên). Tỷ lệ xử lý bùn thải 4%, tính theo công suất vận hành hiện nay.
Báo cáo về công tác bảo vệ môi trường số 231/BC-CP ngày 22/5/2015 của Chính phủ gửi các đại biểu Quốc hội cho thấy, đối với nước thải KCN: Trong số 214 KCN đang hoạt động trên cả nước có 166 KCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải chiếm 12%. Tổng cộng cả nước có 90 KCN đang vận hành hoặc xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
Cục Quản lý môi trường Y tế tại Hội nghị liên ngành Y tế – Môi trường tổ chức hồi tháng 6/2014 cũng cho biết: Đối với nước thải bệnh viện chỉ có khoảng 50% bệnh viện trên toàn quốc có hệ thống xử lý nước thải. Đối với nước thải các cơ sở công nghiệp và làng nghề trong đô thị, hiện có khoảng 5000 làng nghề và làng có nghề, nhưng tại hầu hết các làng nghề, phần lớn nước thải xả thẳng ra môi trường mà chưa qua xử lý.
Hiện nay, ở các đô thị Việt Nam còn rất thiếu các trạm xử lý nước thải. Tuy nhiên ở nhiều nơi, một số trạm xử lý nước thải đã được xây dựng lại hoạt động không hết công suất, do việc đầu tư không đồng bộ, thiếu cống thu gom nước thải nên không có nước thải chảy về trạm xử lý. Nhiều nơi do hạn chế, giảm thiểu chi phí, vận hành trạm xử lý không đúng chế độ thiết kế.
Các vấn đề kết hợp giữa bể tự hoại với mạng lưới thoát nước chung, riêng hay hỗn hợp tổ chức thoát nước và xử lý nước thải tập trung hay phân tán, vấn đề tái sử dụng nước thải, xử lý và tái sử dụng bùn cặn, lựa chọn công nghệ xử lý nước thải, tối ưu hoá vận hành và bảo dưỡng các công trình trong hệ thống thoát nước là những vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Xử lý nước thải phân tán
Số lượng hệ thống thu gom và xử lý nước thải phân tán quy mô nhỏ phục vụ cộng đồng nhỏ đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Một số hệ thống xử lý nước thải phân tán áp dụng công nghệ chi phí thấp như các hệ thống vệ sinh dựa vào cộng đồng ở thôn Lai Xá, xã Minh Khai, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Hệ thống này sử dụng bể tự hoại với các vách ngăn mỏng và ngăn lọc kỵ khí Bastaf, bãi lọc nước trồng cây dòng chảy ngang.
Hệ thống xử lý nước thải cho một nhóm hộ gia đình (30 hộ) ở xã Kiêu Kỵ (Gia Lâm, Hà Nội), ở thị trấn Chợ Mới và Chợ Rã (Bắc Kan) cũng áp dụng đầu tư, quản lý hệ thống xử lý nước thải phân tán là các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng dân cư địa phương và chính quyền địa phương. Vận hành và bảo dưỡng bền vững là vấn đề chính của hệ thống xử lý nước thải phân tán, do những hạn chế trong kỹ năng bảo trì và quản lý hệ thống.
Phương thức xử lý nước thải phân tán cho các sơ sở dịch vụ, sản xuất, cơ sở y tế, các cụm dân cư được áp dụng ngày càng nhiều ở Việt Nam, do nhu cầu đáp ứng tiêu chuẩn môi trường đối với nước thải ngày càng chặt chẽ và ưu điểm giảm chi phí xây dựng cống, tính linh hoạt trong đầu tư và quản lý.
Bên cạnh các sản phẩm nhập ngoại, đã xuất hiện ngày càng nhiều các sản phẩm công nghệ xử lý nước thải phân tán do các đơn vị trong nước nghiên cứu, phát triển hay Việt Nam hoá như: các bể tự hoại kiểu mới bằng bê tông cốt thép thành mỏng đúc sẵn (Cty Thoát nước đô thị Bà Rịa – Vũng Tàu), bể xử lý kết hợp kỵ khí và hiếu khí chế tạo sẵn bằng vật liệu composite theo công nghệ Bastafat và Afsb (Viện khoa học và Kỹ thuật Môi trường, Đại học xây dựng), các bể xử lý nước phân tán bằng bê tông cốt thép với công nghệ bùn hoạt tính, công nghệ lọc sinh học, bioten,…
Một số công trình xử lý nước thải phân tán như các công trình trong khách sạn, bệnh viện và các khu chung cư mới, xả nước thải đã qua xử lý vào mạng lưới thoát nước công cộng mặc dù đã xử lý đạt tiêu chuẩn xả thải. Đó là do công tác lập kế hoạch phát triển vệ sinh môi trường chưa hiệu quả dẫn đến tình trạng phát triển chồng chéo các hệ thống thoát nước tập trung và phân tán.
Công trình vệ sinh hộ gia đình phổ biến nhất ở các đô thị là bể tự hoại, chiếm trên 90% hộ gia đình. Tỷ lệ này rất khác nhau ở các đô thị. Theo đó, các vấn đề tồn tại đối với thoát nước hộ gia đình ở đô thị phổ biến là do có nhiều hộ gia đình có nhà tiêu tự hoại nhưng lại không được đấu nối vào hệ thống cống chung do không có mạng lưới cống trong các ngõ. Kết quả là nước thải chảy vào các rãnh hở hoặc chảy ra xung quanh hoặc ngấm vào đất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống nguồn nước ngầm.
Bên cạnh đó, một số hộ gia đình có nhà vệ sinh dội nước, xả thẳng chất thải vào cống chung mà không qua bể tự hoại hay các công trình xử lý cục bộ khác. Các bể tư hoại nói chung thường có dung tích nhỏ, trong khi việc hút bùn không được thực hiện định kỳ.
Nhiều hộ gia đình hàng chục năm không hút bể tự hoại của mình. Nước thải, do vậy được xả vào các cống chung, có lẫn theo bùn từ các bể phốt, khiến các cống dễ bị lắng cặn và nặng mùi xú uế, nhất là vào mùa khô.
Hiện nay, cách xử lý bùn phát sinh từ mạng lưới thoát nước và trạm xử lý nước thải phổ biến nhất là chôn lấp. Hệ thống thoát nước chung chứa bùn với các thành phần phức tạp và hàm lượng chất vô cơ cao, không phù hợp để thu hồi các chất có ích.
Nhiều thành phố đang gặp khó khăn trong việc bố trí diện tích chôn lấp bùn thải của các nhà máy xử lý nước thải. Cho đến nay việc thu hồi tài nguyên từ bùn chưa trở thành vấn đề quan tâm của các dự án thoát nước và xử lý nước thải đô thị.
Bùn bể tự hoại hoạt động hút, vận chuyển và thải bỏ phân bùn bể tự hoại từ các hộ gia đình, cơ quan xí nghiệp, cơ sở kinh doanh, dịch vụ,… ở các đô thị còn nhiều bất cập. Chưa có thành phố nào quản lý tốt được hoạt động này.
Các doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ hút phân từ bùn một cách tự phát, hầu hết đều đang thải bỏ phân bùn bừa bãi ra các bãi đất trống, vào mương, cống thoát nước hay trực tiếp ra sông, hồ,… gần nơi hút phân bùn để tiết kiệm chi phí vận chuyển mà không bị kiểm soát, gây ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng và lây lan dịch bệnh.
Để kiểm soát ô nhiễm môi trường, cần kiểm soát tốt hệ thống thu gom nước thải. Trong khi tại hầu hết các đô thị Việt Nam hiện nay, xả nước thải chung với hệ thống thoát nước mưa chống ngập của đô thị, kết hợp để thoát cả nước mưa và nước thải, gồm các kênh hở, ao hồ, cống bê tông, rãnh nước thải có nắp đậy. Hệ thống cống thoát nước riêng chỉ được xây dựng trong khoảng thập kỷ vừa qua nhưng cũng chỉ được thực hiện ở một số rất ít địa phương ở Việt Nam.
Tại các đô thị lớn, hệ thống cống chung đã được xây dựng hàng chục năm, đã hư hỏng xuống cấp nhiều. Trong khoảng 15 năm qua, hệ thống cống thoát nước đô thị được đầu tư lắp đặt mới ở các dự án thoát nước, nâng cấp đô thị và giao thông, chủ yếu là các tuyến cống cấp 1 và 2. Mạng lưới cống nhánh cấp 3, đặc biệt là cống nối từ các hộ xả thải vẫn thiếu hụt rất lớn (khoảng trên 35%). Trong khi rất nhiều nơi có đấu nối, nhưng đấu nối không đúng quy cách kỹ thuật làm giảm đáng kể khả năng thu gom và gây ô nhiễm môi trường tại chỗ.
Mạng lưới cống thoát nước đô thị nói chung và thu gom nước thải nói riêng đang dần được cải tạo, mở rộng và nâng cấp tuy kết quả thực hiện chưa được nhanh chóng và hoàn thiện để có thể kiểm soát tốt vấn nạn ô nhiễm môi trường đang ngày càng trầm trọng.