ThienNhien.Net – Thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, trong năm 2014, cả nước đã thu được 5.000 tỷ đồng từ việc tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản để nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của Luật Khoáng sản.
Việc tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản căn cứ theo yêu cầu trữ lượng, chất lượng khoáng sản nằm trong lòng đất được triển khai theo Nghị định số 203/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 28/11/2013, và có hiệu lực thi hành từ ngày 20/1/2014.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Văn Thuấn, Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, việc tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai tại các địa phương đã góp phần nâng cao công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản, từng bước xóa bỏ cơ chế “xin-cho.”
– Năm 2014, các văn bản pháp quy thực thi Luật Khoáng sản 2010 cũng đã cơ bản hoàn thiện. Ông có thể cho biết những tác động và hiệu quả của văn bản pháp luật này đối với việc quản lý nhà nước trong ngành khai khoáng trong năm năm vừa qua?
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Phải khẳng định, Luật Khoáng sản năm 2010 ra đời và có hiệu lực là dấu mốc rất quan trọng trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản. Luật Khoáng sản 2010 được xây dựng với chủ trương không khuyến khích khai thác khoáng sản; chỉ khai thác khoáng sản khi đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước-doanh nghiệp và người dân địa phương nơi có khoáng sản; khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định được đầu tư.
Đặc biệt, với việc hoàn thiện các văn bản pháp luật thực thi Luật Khoáng sản 2010, ngành khai khoáng đã dần xóa bỏ cơ chế “xin-cho” trong việc cấp phép mỏ, hướng tới việc đấu giá công khai, minh bạch.
Cụ thể, tổ chức cá nhân muốn khai thác khoáng sản phải tham gia đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Khi tham gia đấu giá quyền khai thác khoáng sản phải chứng minh được năng lực về vốn, kinh nghiệm khai thác và cam kết công nghệ chế biến khoáng sản. Đối với mỏ đã cấp trước ngày Luật Khoáng sản 2010 đã có hiệu lực thì phải trả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với phần trữ lượng còn lại.
Trong năm nay, các văn bản pháp quy thực thi Luật Khoáng sản 2010 cũng đã cơ bản hoàn thiện. Các quy định trong các văn bản pháp quy đã và đang được thực thi trong quản lý nhà nước về khoáng sản. Hoạt động khoáng sản trên cả nước đã có những chuyển biến tích cực, lợi ích nhà nước thu được từ khoáng sản đã thấy rõ.
– Nghị định 203/NĐ-CP của Chính phủ là văn bản quy định chi tiết thực hiện Khoản 3, Điều 77 Luật Khoáng sản 2010 với chủ trương “siết chặt công tác quản lý.”Vậy, sau 1 năm triển khai, việc thực thi, chấp hành của các doanh nghiệp được thực hiện ra sao, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Thực tế cho thấy, Nghị định số 203/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 28/11/2013, và có hiệu lực thi hành từ ngày 20/1/2014 đã có rất nhiều ý nghĩa đối với sự nghiệp phát triển ngành địa chất và khoáng sản nói riêng cũng như sự phát triển đất nước nói chung.
Với việc triển khai Nghị định này, cả nước dự kiến loại bỏ được các tổ chức khai thác khoáng sản làm ăn kém hiệu quả (dự kiến khoảng 20% doanh nghiệp sẽ bị thu hồi giấy phép do không có đủ khả năng nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản). Các doanh nghiệp có năng lực tài chính có kinh nghiệm khai thác, có công nghệ tiên tiến mới có thể tồn tại.
Ngoài ra, để tránh thất thu cho nhà nước về tiền cấp quyền khai thác, Nghị định cũng đã quy định công tác thăm dò phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát. Khâu này trước đây bị buông lỏng nên đã sinh ra rất nhiều trữ lượng “ảo”; các doanh nghiệp khai thác khoáng sản không còn hiện trạng “ôm mỏ”; chỉ đề nghị cấp phép khai thác đủ trữ lượng theo công suất phù hợp với năng lực…
Nhờ đó, hầu hết các doanh nghiệp khai thác khoáng sản đã tự giác chấp hành tốt các quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cùng hoàn thành công tác tính, thẩm định, phê duyệt tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
– Như ông nói, việc triển khai Nghị định số 203/NĐ-CP đã góp phần nâng cao công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, hiện nay nhiều địa phương vẫn kêu khó bởi việc công bố những khu vực khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ cho các địa phương còn chậm. Cá nhân ông đánh giá gì về thực trạng này?
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Như tôi nói ở trên, Luật Khoáng sản năm 2010 không khuyến kích hoạt động khai thác nhỏ lẻ. Trước đây, trong thời gian ngắn (5 năm) từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khoáng sản năm 2005 đến khi Luật khoáng sản năm 2010 có hiệu lực (1/7/2011) các địa phương đã cấp gần 4.000 giấy phép khai thác khoáng sản. Việc khai thác khoáng sản tràn lan dẫn đến hủy hoại môi trường, sử dụng lãng phí tài nguyên.
Về thẩm quyền cấp phép của địa phương, đối với khoáng sản không thuộc nhóm vật liệu xây dựng thông thường, chỉ được cấp phép thăm dò, khai thác đối với khu vực được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định, công bố là khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ. Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố 2 đợt với số lượng hơn 120 khu vực và dự kiến công bố đợt 3 với khoảng gần 50 khu vực. Trong khi các địa phương đề nghị công bố hơn 800 khu vực.
Thế nhưng, hầu hết các khu vực địa phương đề nghị lại không đúng tiêu chí là khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ. Trong khi, việc “chậm” khoanh định công bố khu vực có khoáng sản phân tán nhỏ lẻ là thực hiện chủ trương quản lý khai thác khoáng sản chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm tài nguyên cho các thế hệ sau.
– Vậy, để tiếp tục đưa hoạt động khai thác khoáng sản đi đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ là quản chặt, quan tâm tới môi trường, chống thất thoát và làm tăng giá trị gia tăng ngành khai khoáng, năm 2015, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam sẽ tập trung vào nội dung gì, thưa ông?
Ông Nguyễn Văn Thuấn: Trong năm 2015, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, pháp luật về khoáng sản. Đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp tăng cường hiệu quản lý hoạt động khai thác khoáng sản như: Triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong “Chỉ thị về việc tăng cường hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản” đã được Bộ trình trong năm 2014.
Theo đó, Tổng cục sẽ xây dựng quy chế phối hợp, cung cấp thông tin với Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) về sản lượng khai thác khoáng sản hàng năm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản theo Giấy phép thuộc thẩm quyền của Bộ.
Tổng cục Địa chất và Khoáng sản cũng sẽ tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, nhất là việc kiểm soát sản lượng khai thác thực tế; hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý giấy phép hoạt động khoáng sản và đưa vào sử dụng làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp; tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản cập nhật dữ liệu, khai thác nhằm kiểm soát chặt chẽ thông tin khai thác khoáng sản./.
Xin trân trọng cảm ơn ông!