ThienNhien.Net – Cùng với sự hồi phục của thị trường bất động sản, các loại vật liệu xây dựng cũng “nhúc nhích” tiêu thụ khá lên. Tuy nhiên, qua bốn năm triển khai, sản phẩm vật liệu xây không nung (VLXKN) vẫn chưa tạo được một chỗ đứng trên thị trường, lượng tiêu thụ khá “ì ạch” mặc dù có nhiều tính năng vượt trội so với gạch nung truyền thống. Ðể loại vật liệu này phát triển bền vững, cần sự vào cuộc mạnh mẽ của các bộ, ngành, địa phương, làm thay đổi tư duy sử dụng của người tiêu dùng.
Tiêu thụ khó khăn
Tính đến thời điểm này, tổng công suất đầu tư các dây chuyền sản xuất VLXKN đã đạt và vượt mục tiêu bảo đảm cung cấp sản phẩm theo Quyết định số 567/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020. Theo đó, tỷ lệ VLXKN so với vật liệu nung phải chiếm 20-25% vào năm 2015 và 30 – 40% vào năm 2020. Tuy nhiên, mức độ tiêu thụ và khả năng hấp thụ sản phẩm này trên thị trường còn rất yếu, thậm chí một số dây chuyền làm ra đến đâu, vào kho đến đó, lượng bán ra hết sức chậm chạp.
Với gạch bê-tông khí chưng áp (AAC), tại miền bắc có chín nhà máy sản xuất, nhưng công suất chỉ đạt khoảng 20% so thiết kế, do không có thị trường tiêu thụ, hai nhà máy tại miền nam khả quan hơn, công suất đạt khoảng 80%, nhưng xuất khẩu chiếm tới 70%, còn trong nước tiêu thụ chỉ nhỏ giọt và không ổn định. Các loại gạch không nung loại nhẹ tiêu thụ cũng gặp khó khăn, chỉ có gạch bê-tông cốt liệu hiện tại sản xuất và tiêu thụ tốt, đạt 1,97 tỷ viên quy tiêu chuẩn, bằng 44% kế hoạch năm.
Vụ trưởng Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) Lê Văn Tới đánh giá, về khách quan, khó khăn lớn nhất của VLXKN là do các nhà máy sản xuất gạch nhẹ ra đời vào đúng lúc kinh tế nước ta bị ảnh hưởng của suy thoái, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường bất động sản trầm lắng, lãi suất vay vốn cao… Do đó, sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm, hàng tồn kho nhiều dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ. Mặt khác, nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về VLXKN còn chưa đầy đủ, chưa hiểu biết nhiều về sản phẩm VLXKN nói riêng và bê-tông khí nói chung.
Việc thay đổi thói quen sử dụng gạch đất sét nung truyền thống của người dân cũng không dễ thực hiện trong một sớm, một chiều. Nhưng xét về mặt chủ quan, hiện nay nhiều nhà đầu tư còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn còn hạn chế, cho nên phần lớn chỉ nhập các dây chuyền công nghệ với trình độ trung bình, thiếu đồng bộ; công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt. Ðội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật tại các nhà máy hầu hết không được đào tạo bài bản, vừa làm vừa học, vừa sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất. Hơn nữa, tình hình xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến nhằm hạn chế dần loại vật liệu nung truyền thống tại nhiều địa phương chưa triệt để, dẫn đến sản lượng gạch đỏ còn nhiều.
Mặc dù, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư quy định sử dụng vật liệu không nung trong các công trình xây dựng có hiệu lực từ ngày 15-1-2013 và việc áp dụng VLXKN vào trong các công trình xây dựng hiện nay đã đầy đủ các điều kiện pháp lý với những chế tài xử phạt việc không sử dụng VLXKN đối với các công trình khá mạnh, nhưng dường như công tác kiểm tra, giám sát còn lỏng lẻo, các đối tượng tham gia xây dựng công trình từ chủ đầu tư đến nhà thầu, giám sát… làm được thì hoan nghênh, còn nếu không cũng chẳng sao, trong khi người dân gần như hoàn toàn “mù tịt” về các ưu điểm của VLXKN. Do vậy, chế tài đã có, nhưng thực hiện thì… rất khó!
Một khó khăn phát sinh trong thực tế là kỹ thuật thi công gạch không nung, nhất là gạch ACC đòi hỏi quy trình phức tạp hơn rất nhiều so với gạch nung truyền thống. Anh Lê Ðức Toản, công nhân xây dựng của Công ty Viglacera cho biết, ngoài việc bảo đảm thi công theo đúng quy chuẩn dành cho gạch không nung, công nhân phải được trang bị đầy đủ các thiết bị, dụng cụ chuyên dụng cho xây trát loại gạch này. Nhiều khi chỉ thiếu một số dụng cụ hoặc vật tư chưa kịp cung ứng cũng ảnh hưởng đến tiến độ công trình, nhất là khả năng kết nối giữa các mảng vật liệu như cột, dầm bê-tông, cửa ra vào,… với tường gạch không nung. Công nhân đôi lúc phải vừa làm, vừa học hỏi, trau dồi thêm các kỹ năng từ thực tế thi công.
Ða dạng hóa sản phẩm
Ðể khắc phục tình trạng “ế ẩm” hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã chủ động nghiên cứu các dòng sản phẩm mới, bám sát nhu cầu của thị trường. Chủ tịch Công ty CP Gạch Khang Minh Ðặng Việt Lê cho biết, công ty đã nghiên cứu và cho ra đời dòng sản phẩm gạch bê-tông cốt liệu có khả năng chống thấm cao. Thông thường, các tường xây ngoài phải thêm công đoạn trát vữa để chống thấm và thực tế chưa có loại gạch xây tường có trát nào được quy định chỉ tiêu này. Công ty đã mạnh dạn đặt ra tiêu chuẩn riêng cho dòng sản phẩm mới và bước đầu đã được thị trường đón nhận tích cực. Sản phẩm đã được sử dụng tại một số công trình xây dựng quy mô lớn tại Hà Nội như Sail Tower, Hei Tower…
Vừa qua, Công ty CP Sông Ðà Cao Cường cũng đưa vào vận hành dây chuyền xử lý tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện chạy than để sản xuất gạch không nung, mở ra một hướng đi mới với nhiều ưu điểm. Theo Chủ tịch HÐQT kiêm Tổng Giám đốc Kiều Văn Mát, đây là dây chuyền hầu hết sử dụng nội lực khoa học – công nghệ trong nước, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí, tài nguyên… Các chất phế thải của nhà máy nhiệt điện chạy than được tái chế thành các sản phẩm có chất lượng cao, sử dụng làm phụ gia, nguyên liệu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng như xi-măng, bê-tông đầm lăn, bê-tông bền sun-phát, bê-tông trạm trộn, gạch nhẹ chưng áp AAC, gạch cốt liệu,… Hiện nay, công ty đang tiếp tục hoàn thiện thiết kế, chế tạo dây chuyền xử lý chất thải rắn cho nhà máy sản xuất phân bón DAP Ðình Vũ (Hải Phòng), tạo ra sản phẩm thạch cao nhân tạo, bảo đảm chất lượng để sử dụng cho ngành sản xuất tấm trần thạch cao, làm khuôn cho ngành gốm sứ, trang trí,…
Theo Vụ trưởng Lê Văn Tới, để đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 thì còn rất nhiều việc cần làm và cần sự chung tay góp sức của các bộ, ngành, địa phương. Bộ Xây dựng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội tăng mức thuế tài nguyên đất sét sản xuất làm gạch đất sét nung tới mức cao nhất 15%. Ðồng thời, bổ sung các dự án đầu tư gạch bê-tông khí chưng áp và dự án đầu tư sản xuất gạch bê-tông xi-măng cốt liệu có công suất hơn bảy triệu viên quy tiêu chuẩn/năm vào danh mục dự án được vay vốn tín dụng ưu đãi từ quỹ môi trường. Ðồng thời, phối hợp các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền về Chương trình 567 và Chỉ thị 10 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng VLXKN tại các công trình xây dựng, giám sát chặt chẽ lộ trình xóa bỏ lò gạch thủ công. Tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra và có chế tài xử lý mạnh mẽ trong việc sử dụng VLXKN trong xây dựng, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước…
Lúng túng trong sản xuất, sử dụng VLXKNViệc đầu tư sản xuất gạch bê-tông bọt, bê-tông khí chưng áp ACC bước đầu phát triển nóng nhưng trình độ công nghệ thấp, thiết bị chưa đồng bộ, do vậy chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã chưa ổn định và đa dạng. Ðồng thời, khi đưa sản phẩm vào xây dựng, do không tuân thủ đúng chỉ dẫn kỹ thuật, vữa xây, vữa trát không đạt chất lượng, người thợ xây chưa được đào tạo bài bản cho nên chất lượng một số ít công trình bị ảnh hưởng, gây tâm lý lo ngại về chủng loại sản phẩm, ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ trên thị trường.
TS TRẦN VĂN HUYNH (Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam) |
Tạo thêm cơ chế ưu đãiVướng mắc hiện nay còn nằm ở cơ chế chính sách và đào tạo nguồn nhân lực, do vậy cần hoàn thiện thêm các cơ chế chính sách ưu đãi cụ thể, nhất là các chính sách về sản xuất và tiêu thụ VLXKN. Cơ quan quản lý nhà nước phải ban hành danh mục các loại thiết bị vật tư sản xuất VLXKN trong nước chưa sản xuất được, cho phép miễn thuế nhập khẩu. Ðồng thời, chỉ đạo các cơ sở đào tạo nghề đưa nội dung kỹ thuật thi công VLXKN vào chương trình đào tạo để chuẩn bị nguồn nhân lực cho các công trình xây dựng.
TRẦN TRỌNG TUẤN (Giám đốc Sở Xây dựng TP Hồ Chí Minh) |