ThienNhien.Net – Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất do biến đổi khí hậu (BÐKH) và nước biển dâng, do vậy chúng ta cần có những dự báo về mức độ tổn thương để phát triển bền vững tài nguyên môi trường ven biển ở nước ta.
Nước biển dâng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc gia tăng mức độ tổn thương tài nguyên, môi trường, cụ thể diện tích vùng có mức độ tổn thương cao theo kịch bản nước biển dâng một mét sẽ tăng hơn ba lần so với kịch bản là 0,5 mét, nơi bị tác động mạnh nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mật độ đối tượng bị tổn thương cao tập trung các vùng có nhiều khu công nghiệp, đô thị, du lịch, diện tích đất ngập nước, rừng ngập mặn lớn, mật độ dân cư đông. Mức độ tổn thương cao tập trung ở các vùng tác động mạnh bởi bão, lũ lụt, xói lở, mật độ đối tượng bị tổn thương cao và khả năng ứng phó thấp; khả năng ứng phó cao tập trung vùng có địa hình cao, hệ thống đô thị, cơ sở hạ tầng tương đối mạnh và trình độ dân trí cao.
Bên cạnh đó, nếu so sánh mức độ tổn thương theo kịch bản phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2015 và 2020, có bốn vùng cơ bản như sau: Vùng thấp ở vùng đất ven biển cách bờ từ 8 đến 10 km; vùng trung bình phân bố rải rác, không tập trung thành vùng lớn; vùng tương đối cao chiếm phần lớn vùng biển ven bờ; vùng thấp tập trung ở một số khu bảo tồn có đa dạng sinh học cao ở đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng. Như vậy, có thể nói, vùng thấp và trung bình khả năng ứng phó xã hội sẽ tăng, ở vùng trung bình sẽ chuyển một số vùng từ mức cao về trung bình. Ở vùng tương đối cao, khả năng ứng phó gia tăng, riêng vùng biển Bạc Liêu, Cà Mau tăng theo thời gian. Vùng cao sẽ chuyển một số vùng ven biển từ mức cao xuống tương đối cao và trung bình. Ðến năm 2020, diện tích các vùng tương đối cao và cao giảm dần do các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội làm gia tăng khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên – xã hội.
GS, TS Mai Trọng Nhuận, Tổng hội Ðịa chất Việt Nam cho rằng: Dựa vào các dự báo, quy hoạch “chủ động”, tìm kiếm các “giải pháp mềm” để giảm mức độ tổn thương, là cách “trốn chạy khôn ngoan”. Ðây không phải là vấn đề mới, nhưng cần phải có tầm nhìn xa, sử dụng tài nguyên và phát triển kinh tế – xã hội nói chung. Các quy hoạch phải dựa vào đánh giá và dự báo mức độ tổn thương để chủ động ứng phó với BÐKH, nước biển dâng, cũng như các tai biến hơn là bị động như hiện nay. Phần cứng là giải pháp công trình như xây dựng và triển khai các trạm quan trắc, mô hình dự báo biến động tài nguyên, môi trường, mức độ tổn thương theo các kịch bản BÐKH, nước biển dâng với độ tin cậy cao… Phần mềm là giải pháp phi công trình, cần vận dụng linh hoạt từ đánh giá, dự báo, quy hoạch đến tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân.
Theo GS, TS Mai Trọng Nhuận, dựa vào đặc thù kinh tế – sinh thái và mức độ tổn thương, quy hoạch sử dụng bền vững tài nguyên – môi trường nên chia thành sáu vùng với các ưu tiên phát triển phù hợp. Vùng ven biển Móng Cái – Ðồ Sơn ưu tiên hệ thống cảng biển, du lịch sinh thái như các dự án phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái đặc biệt (rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển…). Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (Ðồ Sơn – cửa Lạch Trường) nuôi trồng thủy sản, phục hồi, bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn và đất ngập nước cửa sông, cải tạo hệ thống đê biển, phòng, chống xói lở và bão lũ. Vùng ven biển Bắc Trung Bộ (cửa Lạch Trường – mũi Hải Vân) với du lịch kỳ quan địa chất, khu công nghiệp ven biển, cảng biển, vùng ven biển Nam Trung Bộ (mũi Hải Vân – mũi Hồ Tràm) có cảng, trung tâm nghề cá, các khu kinh tế ven biển, du lịch biển. Vùng ven biển Ðông Nam Bộ (mũi Hồ Tràm – Gành Rái) phát triển các khu công nghiệp, khai khoáng hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và cảng biển, du lịch sinh thái. Vùng ven biển Tây Nam Bộ (Gành Rái – Hà Tiên) nuôi trồng thủy sản, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng biển. Hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng rất quan trọng với phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh lương thực nhưng bị tổn thương cao nhất, bởi vậy phải có chiến lược thích ứng khi nước biển dâng cao. Giải pháp quan trọng nhất là quy hoạch sử dụng đất, quản trị thích ứng phù hợp với các kịch bản dâng cao mực nước biển ở mức 0,5 và 1 m. Với tầm nhìn chiến lược và triết lý ứng phó khôn ngoan với BÐKH, quỹ đất phải để dành cho việc di dân vùng đất thấp, sẽ bị ngập, cũng như phát triển các công trình liên quan…
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, với phương châm dự báo trên cơ sở thu thập dữ liệu chính xác nhằm ngăn chặn và chủ động thích ứng, Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp “cứng và mềm” để hạn chế tác động bất lợi, tận dụng cơ hội nếu có của BÐKH. Tinh hoa truyền thống của văn minh trị thủy, văn minh lúa nước của người Việt Nam cũng cần được nghiên cứu và vận dụng, ứng phó phù hợp từng vùng, miền về điều kiện tự nhiên, thiên tai, trình độ phát triển kinh tế – xã hội, nguồn lực. Các giải pháp ứng phó với thiên tai, nước biển dâng, BÐKH cần đưa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển của từng vùng phù hợp với mức độ tổn thương hiện tại và trong tương lai.