ThienNhien.Net – Trong lĩnh vực cung cấp thiết bị đồng bộ cho 5 ngành chính, ngoài thủy điện, nhà thầu Trung Quốc xuất hiện tràn lan ở các dự án nhiệt điện, xi măng, bô xít với tỷ lệ nội địa hóa gần như bằng 0%.
Thiếu sự quản lý quyết liệt, chặt chẽ các chính sách phát triển cơ khí khiến ngành cơ khí phát triển kém là nhận xét chung của hầu hết các đại biểu dự Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành cơ khí, do Bộ Công thương tổ chức mới đây tại Hà Nội.
Đơn cử như việc thực hiện Chỉ thị 494/CT-TTg ngày 20/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về sử dụng hàng hóa trong nước với những gói thầu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, hay Chỉ thị số 734/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2011 cho phép các chủ đầu tư, trong trường hợp có thể thì phân chia các gói thầu EPC thành các gói thầu riêng biệt: E (tư vấn), P (mua sắm thiết bị), C (xây lắp) để các doanh nghiệp cơ khí trong nước có thể tham gia.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Công thương Lê Xuân Quang, khi tổ chức đấu thầu, các chủ đầu tư luôn tìm cách “né” các nhà thầu trong nước, trong khi các cơ quan quản lý thiếu kiểm tra quyết liệt quá trình thực thi của chủ đầu tư.
Bên cạnh đó, luật đấu thầu giá rẻ, không chủ ý đến nguồn gốc xuất xứ, không ưu tiên đúng mức đến tỷ lệ nội địa hóa, do vậy hầu hết các dự án lớn đều rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc.
Khi nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, các nhà chế tạo Việt nam hầu như không có cơ hội tham gia như nhà thầu phụ.
Vì vậy, sau 10 năm thực hiện chiến lược phát triển ngành, các chỉ tiêu chính về sản xuất, kinh doanh của ngành cơ khi tuy năm sau cao hơn năm trước, nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước của ngành cơ khí năm 2012 mới đạt 32,58% so với mục tiêu đáp ứng 40-50% nhu cầu trong nước năm 2010 mà Chiến lược đề ra.
Giá trị nhập khẩu của ngành cơ khí năm 2012 cũng cao gấp hai lần giá trị xuất khẩu với 22,460 tỷ USD so với 12,1 tỷ USD.
Các nhà thầu Trung Quốc xuất hiện tràn làn trong các dự án cung cấp thiết bị đồng bộ ở các ngành chính như nhiệt điện, xi măng, bô xít.
“Trong chiến lược phát triển ngành cơ khí, nhóm sản phẩm này không những không hoàn thành mục tiêu nội địa hóa 40% giá trị, mà còn có xu hướng nhập khẩu ngày càng tăng dù năng lực nội địa hóa không hề thấp”, TS Nguyễn Chỉ Sáng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu cơ khí cho biết.
Duy chỉ có ngành thủy điện với sự chỉ đạo sát của Chính phủ nên nội địa hóa được 90% thiết bị cơ khí thủy công nên đã nội địa hóa được 30% giá trị thiết bị của các dự án thủy điện.
Còn các ngành nhiệt điện, xi măng, bô xít, tổng giá trị nội địa hóa cho nhóm sản phẩm thiết bị đồng bộ chỉ xấp xỉ 10%.
Trong tổng số 24 nhà máy xi măng, có đến 23 nhà máy do nước ngoài làm tổng thầu EPC. Trong đó, các nhà máy do Trung Quốc làm tổng thầu EPC, phần lớn tỷ lệ nội địa hóa bằng 0% hoặc không lớn hơn 3%.
Các nhà máy do nhà cung cấp từ các nước G7 làm tổng thầu, tỷ lệ nội địa hóa có khá hơn, đạt xấp xỉ 25%. Điều đáng nói là về mặt kỹ thuật, Việt Nam hoàn toàn có thể thiết kế, chế tạo 40% giá trị thiết bị của các nhà máy trên.
Tương tự trong 20 dự án nhiệt điện đã đầu tư, tỷ lệ nội địa hóa cũng gần như bằng 0% tại 15 dự án Trung Quốc làm tổng thầu EPC; trong khi các dự án Việt Nam làm tổng thầu tỷ lệ nội địa hóa đã đạt 20%.
Trong lĩnh vực nhôm và bô xít, dù theo đánh giá của Công ty Hatch (Australia), Việt Nam có thể tự chế tạo 50-70% thiết bị. Nhưng ở cả hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu EPC, tỷ lệ nội địa hóa cũng chỉ vẻn vẹn 2%.