ThienNhien.Net – Việc Chính phủ loại bỏ 424 dự án thủy điện, chiếm 34,2%, trong tổng số 1239 dự án được quy hoạch sau quá trình rà soát quy hoạch phát triển thủy điện trên toàn quốc năm 2012 là quyết định cần thiết với những cân nhắc về lợi ích kinh tế và hệ lụy môi trường, xã hội. Quyết định này cũng cho thấy những bất cập và tồn tại của công tác quản lý nhà nước trong quy hoạch, giám sát vận hành thủy điện. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu đây đã phải con số cuối cùng nếu như 815 dự án còn lại trong quy hoạch tiếp tục được rà soát? Liệu đã đến lúc phải đặt ưu tiên cao nhất cho việc đảm bảo an ninh nguồn nước và bảo vệ rừng và coi đó là yêu cầu cấp thiết vì lợi ích lâu dài, tránh các tác động tiêu cực đối với đời sống cộng đồng và phát triển kinh tế-xã hội?
Trước hết, phải khẳng định rằng từ năm 1990 đến nay, thủy điện là nguồn điện năng quan trọng cho đời sống, sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đến năm 2012, thủy điện vẫn đóng góp 48,26% công suất và 43,9% điện lượng cho hệ thống điện toàn quốc bên cạnh các nguồn khác. Tuy nhiên những tác động tiêu cực về môi trường, xã hội do thủy điện gây ra đã làm thay đổi nhận thức lâu nay vẫn cho rằng thủy điện là nguồn năng lượng sạch và rẻ. Theo báo cáo của Bộ Công thương, từ năm 2006 đến nay chúng ta đã phải đánh đổi 50.000 ha đất rừng để làm thủy điện. Còn báo cáo của Bộ Nông nghiệp cho biết 20.000 ha rừng đã bị “xóa sổ” bởi các dự án thủy điện trong giai đoạn 2006-2012. Về tác động xã hội, theo thống kê của Bộ Nông nghiệp, chỉ tính riêng trong 21 dự án thủy điện ở 12 tỉnh đã có khoảng 75.000 hộ phải di dời, gây xáo trộn cuộc sống, sinh kế và đời sống văn hóa của người dân. Thiệt hại do sự cố an toàn đập và xả lũ khi có rủi ro thiên tai xảy ra hàng năm ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Tuy nhiên, các tác động thực tế, lâu dài của các nhà máy thủy điện đã vận hành hoặc đang xây dựng vẫn chưa được nhận thức đầy đủ và chưa được đánh giá, dự báo một cách toàn diện. Khả năng đảm bảo an toàn đập và quản lý vận hành hồ chứa không gây hại cũng chưa đủ độ tin cậy. Chính vì vậy, việc tiếp tục đánh giá, xem xét toàn diện về lợi ích và thiệt hại đối với từng dự án cũng như cả hệ thống thủy điện quy hoạch trên từng lưu vực sông là vô cùng cần thiết, làm cơ sở để loại bỏ hoặc cấp phép xây dựng, đồng thời áp dụng biện pháp giảm thiểu, đảm bảo an ninh môi trường và xã hội.
Mỗi một dòng sông là một hệ sinh thái thống nhất, hoàn chỉnh, không phụ thuộc vào việc phân định theo địa giới hành chính. Tuy nhiên, việc phân quyền quy hoạch cho các địa phương như hiện nay đã dẫn đến sự phát triển nóng, dày đặc thủy điện vừa và nhỏ, để lại hậu quả là sự tàn phá các lưu vực sông, ngăn chặn dòng chảy tự nhiên xuống hạ lưu. Yêu cầu quy hoạch vì vậy phải dựa trên kết quả đánh giá môi trường chiến lược cho từng lưu vực và áp dụng quy hoạch phát triển tổng hợp lưu vực sông để có các lựa chọn dự án và quy mô phù hợp.
Bên cạnh đó, ngoài chức năng sản xuất điện, đối với mỗi dự án, các cơ quan có thẩm quyền cần khẳng định rõ ràng và chính xác khả năng và chức năng của công trình đối với việc cắt, giảm lũ, chống hạn và cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất và bảo vệ môi trường cho vùng hạ du. Xét tổng thể, theo quy hoạch trước khi rà soát, trong tổng số dung tích phòng lũ của hệ thống thủy điện Việt Nam đạt khoảng 10,5 tỷ m3 thì đã có 10 tỷ m3 thuộc về 130 dự án thủy điện vừa và lớn (>30MW), còn lại là hầu hết thủy điện nhỏ (<30MW) với hơn 1.100 dự án chỉ có dung tích hữu ích nhỏ khoảng 0,5 tỷ m3. Với số liệu này, việc gán cho hệ thống thủy điện nhỏ chức năng cắt, giảm lũ vùng hạ lưu là không đáng tin cậy. Trong nhiều trường hợp, các công trình thủy điện nhỏ còn làm cho tình trạng ngập lụt cục bộ trở nên trầm trọng hơn. Hậu quả xả lũ mà các thủy điện ở Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Gia Lai và Kon Tum gây ra trong thời gian vừa qua là một bằng chứng nhãn tiền. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục xem xét loại bỏ khỏi quy hoạch đối với các dự án có nguy cơ gây tổn thương cao do xả lũ, đặc biệt là các công trình ở những nơi có địa hình dốc và ngắn như khu vực miền Trung.
Ngoài ra, việc bảo vệ tính toàn vẹn của hệ thống rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng phòng hộ và đặc dụng trên các lưu vực sông là tối quan trọng. Đây cũng là lá chắn, đảm bảo nguồn nước và an toàn cho hoạt động của các nhà máy thủy điện. Tuy nhiên, thủy điện trên thực tế lại bị gán cho cái danh “những dự án mang tên phá rừng” cũng bởi vì nhiều công trình thủy điện phá rừng nhiều hơn diện tích được phép chặt hạ, không kể các diện tích lấn chiếm và phá rừng trái phép ở các khu tái định cư. Cũng chính vì thế, nhiều chuyên gia cho rằng số liệu đất rừng và rừng bị mất do thủy điện được báo cáo tại Quốc hội gần đây là chưa chính xác, ít hơn nhiều so với thực tế nếu nhìn vào hiện trạng mất rừng do chuyển đổi mục đích sử dụng từ năm 2005 đến nay của các tỉnh như Quảng Nam, Lâm Đồng, Kon Tum… Thực tế này đòi hỏi các địa phương phải tiếp tục rà soát lại diện tích rừng đã mất trên mỗi dự án để yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ trồng bù, đồng thời loại khỏi quy hoạch các dự án có nguy cơ gây mất rừng cao. Hơn nữa, thông qua thực hiện chính sách dịch vụ môi trường rừng, cần ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các doanh nghiệp thủy điện đối với bảo vệ rừng thượng nguồn.
Quyết định loại bỏ các dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A ra khỏi quy hoạch thời gian vừa qua là một ví dụ cho thấy sự cần thiết phải công khai thông tin, tham vấn rộng rãi nhiều bên liên quan để có thể đánh giá đúng và toàn diện về tác động môi trường, xã hội của thủy điện. Qua đó cũng đồng thời tăng cường trách nhiệm giải trình và sự tuân thủ pháp luật của các bên liên quan. Trong thời gian tới, cách tiếp cận này cần được thể chế hóa cụ thể, đi đôi với việc tiếp tục công khai thông tin, rà soát và cân nhắc lại các quy hoạch thủy điện.
Theo phân tích của Tiến sĩ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, thì việc “loạn thủy điện” dẫn đến hậu quả mất rừng là do sai lầm từ bài toán cơ cấu nguồn điện năng, dẫn đến phát triển quá mức nguồn lực thủy điện. Cụ thể, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với tư cách là tham mưu cho Chính phủ trong việc xây dựng các tổng sơ đồ phát triển điện lực, đã quá ưu tiên cho việc phát triển thủy điện, đưa tỷ trọng thủy điện lên mức cao hơn mức hợp lý mà thế giới đã xác định. |
Việt Dũng/Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature)