ThienNhien.Net – Ngày 8/10, EVN đã ra thông cáo liên quan đến kết luận của Thanh tra Chính phủ về một số sai phạm tại Tập đoàn này.
Theo EVN, vốn đầu tư ngoài Công ty mẹ ở đây là EVN phải được hiểu rằng, EVN dùng vốn của mình đầu tư vào các Công ty con, công ty liên kết để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, truyền tải, phân phối điện theo cơ chế, quy định của Nhà nước. Bản chất các khoản đầu tư của EVN vào các công ty con, công ty liên kết sản xuất kinh doanh điện, không phải là khoản đầu tư mới ngoài ngành sản xuất kinh doanh điện.
Theo đó, trong số 121.790 tỷ đồng Công ty mẹ đầu tư vào Công ty con, công ty liên kết thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện 49.634 tỷ đồng (gồm các Tổng công ty phát điện, Tổng công ty truyền tải điện quốc gia, các Tổng công ty Điện lực,..). Công ty mẹ cho các công ty con vay lại 70.049 tỷ đồng (gồm các Tổng công ty phát điện, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia, các Tổng công ty Điện lực,..); Công ty mẹ đầu tư ngoài ngành có 2.107 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 2,7% trên vốn điều lệ).
EVN cũng khẳng định không có đầu tư ra ngoài EVN. Thực chất đây là các khoản EVN đã vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước (chủ yếu là vay của nước ngoài) để đầu tư các công trình điện của EVN mà EVN phải trực tiếp nhận nợ. Nay EVN cho các đơn vị thành viên vay lại nhằm thu hồi vốn từ các đơn vị thành viên đã sử dụng nguồn vốn vay để đầu tư các công trình điện về EVN để có nguồn trả nợ.
Về việc đầu tư ngoài ngành số tiền 2.107 tỷ đồng, EVN đã có văn bản báo cáo Bộ Công Thương thực hiện thoái vốn ngoài ngành số tiền 2.107 tỷ đồng và hiện EVN đang tích cực triển khai để cố gắng đến năm 2015 hoàn thành việc thoái vốn này.
Đối với việc xây nhà công vụ, EVN cho rằng, do đặc thù các nhà máy điện đều ở xa, được vận hành liên tục 3 ca 4 kíp, nên các nhà máy điện đều phải có khu Quản lý vận hành sửa chữa, trong đó có hạ tầng và nhà ở cho cán bộ công nhân, những nhà ở này thực chất là nhà ở công vụ.
Các nhà ở biệt thự đơn lập, song lập được xây dựng cho các chuyên gia sinh sống trong quá trình thi công nhà máy, sau khi nhà máy xây dựng xong các chuyên gia không ở nữa thì chuyển thành nhà khách cho khách đến làm việc hoặc nhà ở phục vụ quản lý vận hành.
Các công trình thể thao nằm trong khu quản lý vận hành nhằm đảm bảo sức khỏe của chuyên gia, công nhân bớt căng thẳng, nhanh chóng hồi phục sức khỏe để duy trì thực hiện làm ca trực tiếp theo, giảm được các ảnh hưởng tiêu cực của xã hội.
EVN cho rằng, hiện nay, trong các Nghị định về Quản lý đầu tư của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn của các Bộ ngành không nêu cụ thể có danh mục Khu quản lý vận hành sửa chữa, nhà công vụ, nhưng với các nội dung nêu trên, việc xây dựng khu quản lý vận hành, sửa chữa, nhà công vụ cho cán bộ công nhân của các nhà máy điện là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện thực tế.
Từ những căn cứ này, khi lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật các nhà máy điện đơn vị tư vấn đã xem xét sự cần thiết và nhu cầu thực tế trên cơ sở qui mô của cụm nhà máy đã tính toán và đưa khu Quản lý vận hành, sửa chữa là một hạng mục công trình của dự án, chủ đầu tư đã báo cáo trình cấp có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật – TDT trong đó có hạng mục khu quản lý vận hành nêu trên. Các khu quản lý vận hành sửa chữa của năm trung tâm nhà máy nhiệt điện nêu trên đều đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch, cấp đất cho phép xây dựng theo các quy định hiện hành.
Về nguồn vốn đầu tư khu chung cư, nhà công vụ phục vụ vận hành, công trình thể thao, EVN sử dụng nguồn vốn đầu tư từ khấu hao, lợi nhuận sau thuế hoặc vay ngân hàng và hạch toán riêng, không đưa vào giá thành điện. Các đơn vị thực hiện thu tiền thuê nhà và các dịch vụ theo quy định để hoàn vốn đầu tư, không hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện.
EVN cũng cho biết, việc điều chuyển nguồn vốn các dự án đã hoàn thành nên phần lãi trái phiếu số tiền 223.909.749.578 đồng được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện ngay trong năm tài chính thay vì hạch toán vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản của các công trình điện (tăng vốn đầu tư của dự án và cũng được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh điện thông qua khấu hao TSCĐ), về tổng thể việc hạch toán nêu trên không làm tăng chi phí sản xuất điện.
Do năm 2010, 2011 EVN gặp rất nhiều khó khăn như nhu cầu phụ tải tăng cao trong khi nắng hạn thiếu nước, ngành Điện phải huy động lượng dầu rất lớn để phát điện nên 2 năm liên tiếp EVN lỗ tổng cộng 12.000 tỷ đồng.
Theo quy trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, hằng năm EVN giao các chỉ tiêu cho các Tổng công ty, các đơn vị trong Tập đoàn. Năm 2011 do khó khăn nên EVN đã giao chỉ tiêu lỗ cho các đơn vị để các đơn vị phấn đấu giảm lỗ so với lỗ kế hoạch. Việc hạch toán giá thành của EVN luôn tuân thủ các quy định của nhà nước và đã được các tổ chức thanh tra, kiểm toán xác nhận.