ThienNhien.Net – “Lẽ” ở đây thuộc về các vấn đề liên quan đến thể chế, chính sách; nguồn tài chính; công tác thanh, kiểm tra và ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp. Cuộc trao đổi nhanh với ThS. Dương Xuân Điệp, Trưởng Phòng Khoa học Môi trường,Viện Khoa học Quản lý Môi trường dưới đây sẽ làm rõ những nội dung này.
– Chất thải rắn công nghiệp hiện là một trong những nguồn chất thải chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chất thải công nghiệp. Tuy nhiên, việc quản lý loại chất thải này còn tồn tại nhiều bất cập. Ông đánh giá như thế nào về thực trạng này, và đâu là nguyên nhân chính của vấn đề?
ThS. Dương Xuân Điệp: Mặc dù đã được đề cập trong nhiều nội dung chiến lược và các quy định pháp luật liên quan, song hoạt động quản lý chất thải rắn công nghiệp vẫn tồn tại không ít bất cập do một số nguyên nhân.
Nguyên nhân trước tiên thuộc về vấn đề quản lý. Đây là một trong những lĩnh vực có sự tham gia quản lý của nhiều Bộ, ngành, trực tiếp là Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng. Điều này dẫn tới phân tán, chồng chéo, làm giảm hiệu quả quản lý. Đặc biệt, ở cấp địa phương, theo Nghị định 81/2007/NĐ-CP, chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung (bao gồm quản lý chất thải) được giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường, tuy nhiên theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP, chức năng quản lý nhà nước về chất thải rắn lại được chuyển sang Sở Xây dựng. Vì vậy, ở mỗi địa phương, chức năng quản lý chất thải rắn được giao cho những đơn vị khác nhau.
Vấn đề thứ hai nằm ở hạn chế về mặt tài chính. Mặc dù nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này khá đa dạng (được trích từ nguồn ngân sách nhà nước hàng năm, nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường và phí vệ sinh môi trường), song mức chi cho hoạt động lại tương đối nhỏ.
Về công tác thanh, kiểm tra, do lực lượng mỏng, thiếu trang thiết bị nên hiệu quả cũng chưa đạt như mong muốn. Mặc dù hàng năm, các cơ quản quản lý về bảo vệ môi trường từ cấp Trung ương đến địa phương đều tổ chức thanh, kiểm tra tình hình tuân thủ quy định pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và công tác quản lý chất thải rắn nói riêng, nhưng không nhiều vi phạm lớn liên quan đến hoạt động này bị phát hiện.
Ngoài các vấn đề nêu trên, việc nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường cũng là một trong những nhân tố làm gia tăng bất cập trong công tác quản lý chất thải rắn công nghiệp.
– Xin ông cho biết những loại chất thải thường phát sinh trong hoạt động sản xuất công nghiệp và ảnh hưởng của chúng đối với môi trường, sức khỏe con người?
ThS. Dương Xuân Điệp: Lượng chất thải rắn công nghiệp ngày càng gia tăng, tập trung nhiều tại các vùng sản xuất công nghiệp trọng điểm phía Bắc và phía Nam. Thành phần chất thải rắn công nghiệp thường bao gồm: rác thải hữu cơ (30-40%), tro xỉ (10-15%), kim loại (5-10%), bao bì (2-4%) và các thành phần vô cơ khác như: thủy tinh, cao su, giẻ lau (20-30%). Ngoài ra, thành phần chất thải nguy hại như: dầu thải, sơn keo, dung môi… cũng thường chiếm không quá 20%, tùy thuốc loại hình sản xuất công nghiệp. Đáng chú ý là lượng chất thải này hiện không được thu gom, xử lý triệt để mà bị chất đống hoặc thải vào các kênh rạch, sông, hồ, gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, đất và không khí.
Việc quản lý và xử lý chất thải rắn công nghiệp không hợp lý sẽ không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe con người, đặc biệt là đối với người lao động làm việc tại các khu sản xuất công nghiệp cũng như người dân vùng lân cận. Một số nghiên cứu cho thấy cộng đồng tại các khu vực sản xuất công nghiệp thường bị mắc các bệnh về da, viêm phế quản, tiêu chảy, hô hấp…
Việc đánh giá tác hại của ô nhiễm cũng như mức độ thiệt hại về kinh tế do sản xuất công nghiệp gây ra đòi hỏi phải có những số liệu nghiên cứu công phu và hệ thống, tuy nhiên các số liệu hiện nay mới chỉ phản ánh được một phần thực trạng.
– Tổng khối lượng chất thải rắn công nghiệp phát sinh ngày càng nhiều, trong khi lực lượng làm công tác thu gom, xử lý lại khá “mỏng”. Vậy theo ông, cần thực hiện những biện pháp gì nhằm giúp công tác xử lý nhóm chất thải này đạt hiệu quả cao hơn?
ThS. Dương Xuân Điệp: Trước tiên, cần hoàn thiện về mặt thể chế, chính sách và tăng cường hiệu lực tổ chức giám sát, cưỡng chế. Cụ thể, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường 2005 theo hướng quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham gia công tác quản lý chất thải rắn từ cấp Trung ương đến địa phương, đồng thời sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn hoặc ban hành một nghị định mới về quản lý chất thải ngay sau khi Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi được thông qua.
Thêm nữa, cần tăng cường vai trò của các doanh nghiệp tham gia quản lý chất thải rắn. Hiện ở hầu hết các địa phương, Công ty môi trường đô thị là doanh nghiệp nhà nước, chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn đô thị và chất thải rắn công nghiệp. Tuy nhiên, ngoại trừ một số đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…, còn lại đa phần các địa phương đều gặp khó khăn trong công tác này do thiếu nhân lực và trang thiết bị.
Một điểm khác cũng cần lưu tâm là việc quy hoạch và lựa chọn các công nghệ xử lý chất thải rắn phải phù hợp với điều kiện địa phương. Theo đó, cần tiến tới quy hoạch khu quản lý và xử lý chất thải rắn trên phạm vi cả nước, đồng thời áp dụng các công nghệ xử lý tiên tiến, an toàn, phù hợp.
Song song với các giải pháp trên, cần tăng cường giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải bằng cách giảm thiểu tối đa nguyên liệu đầu vào; tăng cường áp dụng sản xuất sạch hơn; tăng cường quản lý nội vi, kiểm soát quá trình, cải tiến trang thiết bị để tránh thất thoát nguyên vật liệu; đầu tư đổi mới công nghệ; hạn chế sử dụng các hóa chất độc hại trong từng giai đoạn sản xuất.
Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!