ThienNhien.Net – Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” lâu nay đã được cụ thể hóa dưới nhiều hình thức như một cách thức bù đắp thiệt hại và mang lại công bằng cho các cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng bởi các hoạt động phát triển. Tuy nhiên, cách thức này liệu có mang lại công bằng thực sự cho người dân không hay chỉ là một cách xoa dịu những bức xúc của họ? Bài viết dưới đây của TS. Thomas Sikor, Đại học East Anglia (Anh) sẽ dành để phân tích vấn đề này, xin giới thiệu cùng độc giả.
Hình ảnh trên đây minh họa cho một thoả thuận giữa chính quyền và các cộng đồng đang sống ở vùng rừng núi Việt Nam: giúp chúng tôi giữ rừng để giảm thiểu biến đổi khí hậu, chúng tôi sẽ đền bù cho các anh bằng đô la.
Đây là một ví dụ về sự gia tăng sử dụng hình thức đền bù của chính phủ, các công ty và tổ chức đa quốc gia trong quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Họ sẵn sàng đền bù cho các cộng đồng địa phương về sự mất mát do các dự án phát triển cũng như những tác hại do ô nhiễm công nghiệp gây ra. Đây là ý tưởng cơ bản của chương trình Giảm khí thải từ sự mất rừng và suy thoái rừng (REDD+). Nó cũng được áp dụng cho Quỹ thích ứng khí hậu, Chương trình Dịch vụ chi trả phí môi trường, Các thoả thuận chia sẻ trong mô hình đồng quản lý các khu rừng cấm và các dự án trong lĩnh vực khai mỏ.
Tất cả những cố gắng này đều xuất phát từ một giả thiết: quản lý tài nguyên và môi trường sẽ có công lý (hơn) nếu các can thiệp làm cho sự phân phối lợi ích bình đẳng (hơn); nếu các cộng đồng địa phương được ‘chia sẻ công bằng’ doanh thu từ việc khai mỏ hay du lịch sinh thái thì bảo tồn đa dạng sinh học hay khai mỏ sẽ có tính công lý; nếu các nước đang phát triển nhận được tài chính do các công ty dược phẩm đa quốc gia chi trả, thì việc sử dụng nguồn tài nguyên gen của thế giới sẽ có công lý hơn; nếu các nhóm người bị ảnh hưởng bởi chất độc và rủi ro khác được đền bù, thì việc quản lý môi trường và các hoạt động ứng phó của loài người với hiện tượng biến đổi khí hậu sẽ trở nên bình đẳng hơn.
Đền bù có thể đưa lại công lý ở một vài trường hợp, chẳng hạn như trường hợp người dân, cộng đồng bị ảnh hưởng bởi hóa chất độc hại hoặc bị tách rời khỏi nguồn tài nguyên sinh kế, yêu cầu đền bù.
Tuy nhiên, cũng có nhiều lý do để cẩn trọng, như Tuyên bố Norwich về công lý môi trường (Norwich Declaration on Environmental Justice) đã nhấn mạnh.
Đền bù không phải là một giải pháp kỳ diệu để giải quyết tất cả các ảnh hưởng tiêu cực từ quản lý môi trường và tài nguyên đối với các cộng đồng địa phương. Ngược lại, việc sử dụng đền bù như một giải pháp sẽ giới hạn, thậm chí đóng lại những khả năng khác có thể giúp khắc phục những bất công tiềm ẩn về văn hoá, chính trị và kinh tế do quản lý tài nguyên và môi trường đem lại.
Có bốn lý do để thấy đền bù không mang lại công lý.
Thứ nhất, có nhiều người trải nghiệm sự bất công do tổn thất của họ không thể giải quyết được bằng cách đền bù. Ví dụ, người Pemón ở Venezuela có tri thức bản địa trong quản lý đất đai rất đặc trưng, cụ thể là cách sử dụng lửa. Việc nhà nước cấm sử dụng lửa vì lo cháy rừng sẽ ảnh hưởng đến sinh kế của họ, lề hóa kiến thức bản địa và đẩy họ vào nguy cơ bị mất gốc. Trong trường hợp này, đền bù bằng tiền sẽ không giúp giải quyết bất công, vì lối sống và bản thân họ đã bị lề hóa bởi chính sách của chính quyền.
Thứ hai, đền bù có thể biến thành sự cưỡng ép về kinh tế trong bối cảnh có sự bất bình đẳng trầm trọng về quyền lực. Những người dân nghèo có thể cảm thấy bất lực, không có lựa chọn khác, vì vậy phải chấp nhận đền bù. Họ phải từ bỏ các đòi hỏi về công lý rất quan trọng đối với đời sống của họ. Ví dụ, người Ogoni ở vùng châu thổ Niger chỉ coi đền bù là sự xoa dịu mà không thực sự là công lý khi họ buộc phải đi khỏi đồng bằng Niger. Họ phải nhận đền bù, cho dù trong thâm tâm điều họ muốn là được công nhận quyền sở hữu đối với tài nguyên trong lãnh thổ họ đã sinh sống lâu đời, và nhà nước cần tẩy sạch ô nhiễm hơn là chuyển họ đi nơi khác.
Thứ ba, đền bù chỉ có thể tốt ở nơi có các quyền dân chủ và người bị ảnh hưởng có thể tiếp cận được với hệ thống luật pháp. Ở nơi người dân không thể kiểm soát chính phủ, các tập đoàn đa quốc gia và các công ty tạo ra những tổn hại, rủi ro hoặc mất mát thì sự đền bù sẽ không mang lại công lý. Ví dụ, người dân Sudan và Ethiopia không có cơ hội tiếp cận với hầu hết các nguồn thông tin quan trọng về các dự án xây dựng đập trên dòng sông Nile. Kết quả là họ trở thành những người nhận đền bù một cách thụ động, hoặc thậm chí không được đền bù, mà không có phương tiện gì để thương thoả với công ty xây dựng đập.
Cuối cùng, đền bù là giải pháp cuối cùng có thể giải quyết vấn đề phân phối lại của cải, nhưng nó không làm thay đổi bản chất gốc rễ của sự bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn tài nguyên và cơ hội. Ví dụ, chính phủ Ấn Độ đã đền bù các cộng động địa phương sống quanh rừng bằng cách cho phép họ chia sẻ sản phẩm và thu nhập từ rừng do nhà nước quản lý. Tuy nhiên, điều này không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của sự bất công, vì người dân vẫn không được làm chủ nguồn tài nguyên của họ. Phải đến khi Luật về rừng ra đời năm 2006, cho phép các cộng đồng bản địa có quyền quản lý tài nguyên và lãnh thổ truyền thống, thì sự bất công mới được giải quyết tận gốc rễ.
Xét về mặt khái niệm, đền bù giả định một sự thoả thuận chung của các bên liên quan về sự thiệt hại, mất mát hay rủi ro. Người gây ô nhiễm thu lợi từ hoạt động của mình nên phải chia lại một phần cho người bị thiệt hại để đảm bảo công lý. Tuy nhiên, quan hệ quyền lực thường nghiêng về những người gây ô nhiễm, nên phần thiệt luôn nghiêng về phía những nạn nhân. Hơn nữa, khi tư duy “đền bù sẽ mang lại công lý”, lợi ích kinh tế (cho bên nắm quyền) sẽ được cân nhắc, bỏ qua những thiệt hại về văn hóa, xã hội, và tâm linh của cộng đồng. Nguy hại hơn, nó có thể xâm phạm những giá trị đạo đức phổ quát của con người, đó là có thể dùng tiền để rửa sạch tội lỗi khi gây hại cho người khác.
Quay lại hình ảnh ở đầu bài viết để hiểu hơn vấn đề vừa phân tích: Những điều trông có vẻ là đơn giản và có lẽ là sự thương thoả công bằng trong con mắt của các nhà quản lý carbon lại không phải là vấn đề mấu chốt đối với người địa phương. Đối với họ, vấn đề mấu chốt là triết lý của họ được công nhận: Họ không coi rừng là nơi chứa carbon mà là nơi chôn rau cắt rốn, là địa vực cư trú, hay là nguồn cung cấp lương thực cho cuộc sống tự túc bền vững. Họ không nhìn nhận về mình như những cá thể khi giải quyết vấn đề với nhà quản lý carbon mà là những cộng đồng. Có thể, vấn đề quan trọng đối với họ là được tham gia một cách dân chủ vào quá trình đưa ra chính sách quản lý rừng, chứ không chỉ mang thước vào rừng đo cây, rồi lĩnh tiền của chương trình REDD+.
Vì thế, đền bù sẽ không bao giờ đủ vì nó chỉ giúp giải quyết vấn đề phân phối. Đền bù có thể sẽ đưa đến công lý trong một vài bối cảnh, nhưng nó sẽ không giải quyết được bất công cho nhiều người khác. Chúng ta cần phải có những chiến lược triệt để nhằm đem lại công lý môi trường. Các chiến lược này cần đề cập đến sở hữu công bằng về tài sản và cơ hội, cũng như sự tham gia dân chủ, công nhận giá trị bản địa và sự toàn vẹn về môi trường.