ThienNhien.Net – ‘Là quốc gia cuối nguồn, chịu tác động mạnh từ thượng lưu sông Mê Kông, Việt Nam cần có đối sách hợp lý và kiên định mới bảo đảm được sự phát triển của ĐBSCL trong tương lai’.
Những ý kiến này được đưa ra tại hội thảo “Khía cạnh pháp lý trong hợp tác quản lý lưu vực sông Mê Kông” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ tổ chức tại Cần Thơ sáng 30/5.
Các nhà khoa học lo ngại sau việc Lào quyết tâm xây đập Xayaburi trên sông Mê Kông, nhiều vấn đề được đặt ra đối với hạ lưu con sông này.
Theo TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc Trung tâm Tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC), đập Xayaburi, một trong 12 đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông đã được Lào khởi công vào tháng 11/2012 dù trước đó Lào đã chia sẻ đề nghị của Việt Nam và nhiều nước khác nên hoãn lại trong vòng 10 năm để có đánh giá tác động môi trường hoàn chỉnh.
Ông Tứ nói: “12 đập này là đập dâng, dung tích từ 200 triệu đến 2 tỉ mét khối nước/đập, sẽ tác động rất lớn đến an ninh lượng thực, an ninh nguồn nước và an ninh xã hội của 18 triệu dân vùng ĐBSCL”.
Ông Tứ đề nghị: “Lào đã xây đập Xayaburi và đã coi đây là chuyện bình thường rồi thì Nhà nước ta cần phải có chính sách thông suốt để các nhà khoa học tham gia thực hiện Hiệp định về Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông (Campuchia, Lào, Việt Nam, Thái Lan ký năm 1995) và Công ước của Liên hợp quốc về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích không phải giao thông thủy ra đời năm 1997”.
Ông Tứ cũng cho biết ở thượng nguồn sông Mê Kông, đến năm 2040, Trung Quốc sẽ xây dựng 15 đập thủy điện lớn và đã đưa vào hoạt động 4 đập, trong khi Trung Quốc không tham gia Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (MRC).
“Có thể nói Trung Quốc hoàn toàn chủ động sử dụng và chi phối đối với các bậc thang thủy điện ở hạ lưu vực”.
TS Đào Trọng Tứ nhấn mạnh và kiến nghị: “Là quốc gia cuối nguồn, chịu tác động mạnh từ thượng lưu, Việt Nam cần có đối sách hợp lý và kiên định mới bảo đảm được sự phát triển của ĐBSCL trong tương lai”.
Sở dĩ cần phải có những động thái như vậy là vì Mê Kông là 1 trong 10 con sông lớn nhất thế giới; nơi cung cấp gạo lớn nhất thế giới; có nguồn cá và đa dạng sinh học lớn thứ hai thế giới; có tải lượng phù sa thứ sáu trên thế giới (160 triệu tấn/năm) và là vùng đất có đa dạng văn hóa nhất trên thế giới.
Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ, “Việt Nam, đặc biệt là ĐBSCL, hoàn toàn không được hưởng lợi gì đáng kể từ các đập thủy điện trên sông Mê Kông” trong khi “các tổn thất sẽ đánh ngay vào 2 trụ cột kinh tế lớn nhất vùng là nông nghiệp và thủy sản”. Ngoài ra, “sự suy giảm hệ sinh thái đất ngập nước và đa dạng sinh học hoàn toàn không khôi phục được; người nghèo bị tổn thương nặng nhất, hiện tượng di cư sẽ diễn ra trên diện rộng và sẽ làm cho các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu khó thực hiện”.
Tiến sĩ Dương Văn Ni (Đại học Cần Thơ) cũng cảnh báo, thiệt hại do 12 đập thủy điện gây ra là rất lớn, đó là chưa tính tới lượng cá lớn bị biến mất ngoài ven biển ĐBSCL vì lượng phù sa hạ lưu sông Mê Kông ra đây cũng không còn.
Theo TS Lê Đức Trung, Chánh Văn phòng Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, các nước thành viên phải dựa trên cơ sở pháp lý và khoa học thật sự và phải áp dụng quy trình PNPCA (thông báo – tham vấn – thỏa thuận) theo đúng tinh thần Hiệp định sông Mê Kông 1995 làm công cụ quốc tế để có thể xử lý những vấn đề tiếp sau Xayaburi.